Wednesday, July 20, 2011

Tuyệt nhiên không phải là Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất!

Tuyệt nhiên không phải là
Giáo Hội Phật GiáoViệt Nam Thống Nhất!
 
Nhóm LýTrầnLêNguyễn / Paris
 
Xuyên qua những hồ sơ mật của CIA được giải mã, kèm theo hàng chục Thiên Hồi Ký cùa những nhân vật then chốt thuộc cả 2 phe 4 phía, cầm giềng mối chiến tranh. Phối kiểm nhiều tài liệu truy cứu về cuộc chiến VN lần thứ 2 này, qua những Chính trị gia, Bính luận gia, Học giả tên tuổi trên thế giới đã đưa đến một kết luận :Chính Hoa kỳ tác động một cuộc chiến tranh cầu bại tại Việt Nam !

Chỉ những thành phần xôi thịt, nhắm mắt làm tay sai cho Hoa kỳ không nghỉ đến Tiền đồ Tổ quốc, Sinh tồn  Dân tộc mãi cho đến giờ phút này vẫn ngoan cố kết án GHPGVNTN là Cộng sản .

Hoa kỳ chủ xướng cuộc Đảo chánh ngày 01.11.1963 lật đổ Chế độ Độc Tài Gia đình trị Ngô Đình Diệm, nhằm mục tiêu mở rộng cuộc chiến VN với sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa kỳ và Lực lượng Liên Phòng Đông Nam Á.

Cuộc Đảo chánh thành công.

Đó chính là cơ hội, Phật giáo đồ được giải thoát sau gần 100 năm bị Thực
dân Pháp, phối hợp với Cường quyền Quốc tế áp bức đô hộ VN chúng ta, kế đến Chính quyền Thiên Chúa giáo Ngô Đình Diệm tiếp tục đối xử bất công bằng Dụ số 10 !

Mười ba Tông phái Phật giáo Miền Nam VN kết hợp thành :
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Sự hình thành GHPGVNTN ngay thời điểm sôi bỏng đó là một sự kiện tối ư
cần thiết cho quê hương. Hơn thế nữa, mọi người đều nhìn thấy viễn tượng đen tối thảm hại cho Miền Nam Tự Do, khi mà sự điều hành Chính trị Quân sự trên Quê hương, thật sự đều nằm trong tay Tòa Đại sứ và CIA Mỹ !

GHPGVNTN là một Thực thể gắn liền với sự tồn vong của Dân tộc !

Điều đó không thể phủ nhận và bài xích, khi  tình thế đất nước đòi hỏi GHPGVNTN  phải có một thái độ Chính trị lợi ích cho sự sống còn
của Miền Nam Tự Do, trước sự khống chế cùng tột của Hoa kỳ và bè nhóm tay sai !

Thái độ chính trị của GHPGVNTN đã được minh định, tình báo
CIA đã điều nghiên phân tích và ghi chú vào hồ sơ mật mà Tiên-sinh Trần Bình-Nam phiên dịch và phổ biến trên Diễn Đàn. GHPGVNTN chống đối đường lối chính trị bán đứng Miền Nam VN cho CS quốc tế qua cuộc chiến tranh cầu bại của Hoa kỳ và bè lũ tay sai Quân phiệt.

GHPGVNTN ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi,
khi vị Tướng can trường này đưa ra kế hoạch tấn công ra Miền Bắc vào cuối năm 1965 nhằm kết thúc cuộc chiến tranh .

Vì chủ trương một cuộc chiến tranh cầu bại, hay nói khác đi VNCH
"Quân bài thí " trong chiến lược toàn cầu của Hoa kỳ. Dĩ nhiên, kế hoạch và cá nhân Trung tướng Nguyễn Chánh Thi phải bị trừ khử.

Trung tướng Nguyẽn Chánh Thi bị Tướng W.C.Westmoreland và CIA cách chức, tước bỏ binh quyền đồng thời đày biệt xứ sang Hoa kỳ .
 

Đối diện với hoàn cảnh đau thương của đất nước,GHPGVNTN thóat ra ngoài phạm trù Tôn giáo, chủ trương đấu tranh bất bạo động cho sự sống còn của Tổ Quốc đó là một sự hẳn nhiên .

Hơn thế nữa, GHPGVNTN là một Thực thể gắn liền với Dân tộc, bám chặt vào lòng Đất Nước. Tuyệt nhiên không phải là một Thực thể Tôn giáo, tổ chức chặt chẻ theo chiều dọc hơn thập mươi Thế kỷ đã qua, với muôn mặt Chính trị Ngoại vi , chi phối và chỉ đạo trực tiếp  bởi Trung Tâm Quyền Lực Giáo Quyền Quốc Tế .

GHPGVNTN phát động phong trào tranh đấu vào năm 1966 tại Huế và Đà Nẵng đòi hỏi Chính quyền Quân phiệt Thiệu Kỳ thực thi dân chủ tự do cho Miền Nam VN, tổ chức một cuộc
bầu cử Quốc hội Lập Hiến để soạn thảo một Hiến pháp Dân chủ, xây dựng một Chế độ Pháp trị, kiện toàn tiềm lực Quốc gia, dương cao ngọn cờ chính nghĩa trong cuộc đấu tranh chống Cộng sản trên hai bình diện Quân sự và Chính trị. 

Hoa kỳ bác bỏ nguyện vọng hợp lý của GHPGVNTN, tiếp sức cho bọn tay
sai đàn áp, đập nát Phong trào bằng vủ lực tàn bạo. Tạo băng hoại trong hàng ngũ GHPGVNTN bằng tài lực Đô la, bằng màng lưới quyền lực bí mật do Tình báo CIA giăng bủa khắp mọi nơi.
 
CIA và  Chính quyền Quân phiệt Thiệu Kỳ tàn bạo xuống tay phân hóa GHPGVNTN bằng sắc luật 23/67 hủy bỏ Hiến chương GHPGVNTN 1964. Chia GHPGVNTN thành hai khối :

Khối Phật Giáo Ấn Quang và Khối Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự.

CIA và Chánh quyền Quân phiệt Thiệu Kỳ dùng bạo quyền công nhận tính cách pháp lý của Khối Phật Giáo VNQT dưới sự lãnh đạo của Thượng tọa Thích Tâm Châu ( nguyên Viện trưởng VHĐ / GHPGVNTN / nhiệm kỳ đầu tiên ) hậu thuẩn bởi Thượng tọa Thích Tâm Giác Chánh Đại Diện Miền Vĩnh Nghiêm ( Phật tử Miền Bắc Di Cư vùng SaiGòn- Gia Định ) kiêm Giám Đốc Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH.

Chiêu thức tàn độc này, CIA và Chánh quyền Quân phiệt Thiệu Kỳ sử dụng với sự tiếp tay của dư đảng Cần Lao, quyết triệt hạ
Khối Phật Giáo Ấn Quang gồm đa số Tông phái trong GHPGVNTN, bằng qủi kế gian manh áp bức nhằm đẩy ra ngoài vòng định chế pháp luật VNCH  buộc phải giải thể .

Sau 36 năm bể dâu ............
Giờ phút này, phỉ báng, mạ lỵ GHPGVNTN bằng những ngôn từ hạ cấp...

Chụp mũ, kết án GHPGVNTN là Cộng sản, chứng tỏ nhận thức về thời cuộc chính trị một chiều, thô thiển, bè phái, cuồng vọng thù hằn, chỉ nhằm lủng đoạn, chia rẽ  hàng ngũ Tập thể Người Việt Tự Do ở Hải
ngoại .

Trước cao trào đấu tranh đang bùng lên khắp nơi trên thế giới đòi hỏi tự do dân chủ, giải thể mọi chế độ đảng trị độc tài. Phật Giáo Đồ VN  thực thể 80% quần chúng chính là lực lượng chủ yếu phát động công cuộc đấu tranh.

Hành vi đánh phá, gây ung thối, bằng phương tiện truyền thông, phổ biến tài liệu giả tạo, phát hành những tác phẩm dã sử thêu dệt, bưng bít sự thật từ mấy mươi năm qua, mục đích là đập tan tiềm năng kiên cường" Bi Trí Dũng " của GHPGVNTN đang tiếp tục cuộc đấu tranh trực diện với CSVN ngay trong nước.

Đó chính là tay sai Việt Cộng !

 
Thủ phạm nào áp đặt quyền lực chia hai VN bằng hiệp định Genève ?
Thủ phạm nào phân hóa tiềm lực chống Cộng trong hàng ngũ Quốc Gia?
Thủ phạm nào chủ trương bắt tay với Cộng sản Bắc Việt ?
Thủ phạm nào triệt hạ GHPGVNTN ?
Thủ phạm nào bày binh bố trận cho cuộc chiến VN 1954-1975 ?
Thủ phạm nào trói tay QLVNCH ?
Thủ phạm nào bán đứng VNCH cho CS Nga Tàu qua tay CS BắcViệt ?

Hảy can đảm với hùng tâm chí khí của kẻ sĩ,  chỉ mặt vạch tên thủ phạm
ấy đi !
Đừng vuốt mặt làm kẻ cuồng vọng, ôm cứng lấy cái vàng son danh lợi của thời quá khứ, chà đạp sự thật, rêu rao giả dối, điêu ngoa kết án  nạn nhân
là thủ phạm !

Hảy hãnh diện mình là Dân tộc Việt Nam có 4000 năm văn hiến dù hiện đang tị nạn Cộng Sản VN 
sống trên  trên đất Âu, đất Úc, đất Mỹ, nhưng vẫn can đảm chỉ tên vạch mặt thủ phạm đã từng đè đầu Dân tộc, bầm dập Quê hương gần hai thế kỷ nay.

Tuyệt nhiên không phải là :
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất !
 
Nhóm LýTrầnLêNguyễn / Paris

Tuesday, July 19, 2011

PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI NHÂN SINH VŨ TRỤ

PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI NHÂN SINH VŨ TRỤ

Lê Sỹ Minh Tùng


Đối với Phật giáo, vũ trụ được sanh ra như thế nào, con người bắt đầu từ đâu không có gì quan trọng vì tất cả chỉ là thế giới hiện tượng có sinh có diệt. Khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Tỳ kheo Man Đồng Tử  đặt ra những câu hỏi siêu hình để hỏi Thế Tôn rằng :

- Bạch Thế Tôn! Thế giới thường hằng hay không thường hằng, hữu hạn hay vô hạn, linh hồn với thân xác là một hay là khác. Chính Như Lai tồn tại hay không tồn tại sau khi chết… Ông yêu cầu Phật trả lời cho thật rõ ràng tất cả 16 vấn đề mang tính siêu hình này. Nếu Thế Tôn thấy và biết thì nói thấy và biết. Nếu không, trả lời là không. Nếu các vấn đề này không được giải thích thỏa mãn, ông ta cảnh báo sẽ từ bỏ phạm hạnh này, sẽ không theo Phật nữa.
Đức Phật điềm nhiên im lặng. Sự im lặng của Đức Phật cũng giống như ông Duy Ma Cật im lặng khi được hỏi thế nào là nhập pháp môn không hai (Nguyên lý Bất Nhị). Đối với đạo Phật, chân lý không thể diễn bày bằng ngôn ngữ văn tự của con người và chỉ khi nào chúng sinh tự mình nghiệm chứng chân lý thì tự mình thấu biết. Còn đối với thế giới hiện tượng có sanh có diệt, cho dù ngày nay khoa học cố tìm tòi nghiên cứu để tìm định lý này hay định luật nọ thì cũng vẫn còn nằm trong vòng lẫn quẫn sinh diệt, chớ đâu phải là chân lý. Sự hiểu biết của Đức Phật hòa đồng với chân lý của vũ trụ bởi vì chân lý của vũ trụ và tâm thanh tịnh của Ngài đã hòa đồng trở thành một nên bao la vô cùng vô tận thì làm sao nói hết được. Những gì Ngài thuyết cho chúng sinh chỉ là những  lá cây nằm trong bàn tay để giúp con người có phương tiện cần thiết tu học để vượt qua phiền não trần lao, còn những gì Như Lai biết thì bao la như biển rộng, như biết bao chiếc lá trong rừng già. Nói cách khác vũ trụ vạn hữu bao la như thế nào thì Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na tức là trí tuệ của Phật cũng bao la như thế ấy. Tuy trí tuệ rộng như biển cả, nhưng Ngài không nói được vì có nói chúng sinh cũng chẳng hiểu nào, chỉ là vô ích. Thí dụ như vào thời nhà Nguyễn, ông Nguyễn Trường Tộ đi kinh sứ ở Pháp về trình lại với vua quan là ở bên Pháp bóng đèn treo ngược mà vẫn cháy sáng. Tuy ông có giải thích cách mấy thì chẳng có ai tin mà còn mang tội vọng ngữ, khi quân. Đó là tại sao tuy thuyết pháp độ sanh ròng suốt 49 năm mà sau cùng Ngài nói ta chưa hề nói một chữ cho nên nếu nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Như Lai vậy. Thật vậy, trí tuệ của Phật ví như nước trong bốn biển, bao la vô cùng vô tận. Còn những kinh điển Ngài nói rất giới hạn chẳng khác gì nước trong dấu chân trâu. Vì vậy nếu nói Phật thuyết thì chẳng khác gì nói rằng trí tuệ của Phật chỉ nhỏ hẹp như nước trong dấu chân trâu chớ không còn bao la như trong bốn biển. Nói thế nếu không phỉ báng Phật thì là gì.

Phật giáo đối với nhân sinh quan và vũ trụ quan tức là thế giới hữu vi có một giải thích rất rõ ràng vì tất cả chỉ là những hiện tượng trong pháp giới duyên khởi. Đứng về mặt hiện tượng vạn hữu thì duyên khởi là pháp tắc phổ biến về tính nhân quả. Tất cả mọi pháp tồn tại đều là duyên khởi chẳng hạn to lớn như trăng sao hoặc nhỏ như vi trần, một cành hoa, một cọng cỏ không có pháp nào không là pháp duyên khởi. Đó là "Tất cả các pháp nương gá tác động làm nhân làm quả tức là mọi vật thể có được là do trùng trùng duyên khởi mà thành". Nói theo danh từ khoa học là các chủng tử phải trải qua biết bao phản ứng hóa học mới kết thành vật chất mà chúng ta thấy được. Tuy vậy thế giới vũ trụ vạn hữu từ vô thỉ vô chung vô cùng vô cực này cũng không ngoài Căn, TrầnThức. Nếu đứng về phương diện "tục đế" mà nhìn thế gian hiện tượng vạn hữu qua cái thuyết "nhơn duyên sanh" thì hoàn toàn đúng. Không những nó đúng riêng cho nền giáo lý Phật mà nó đúng với sự thật của cuộc đời, đúng với quy luật khách quan của tất cả hiện tượng vạn hữu. Tuy nhiên, nếu đứng về phương diện "chơn đế" mà quan sát để có thể thấy biết bằng tri kiến rộng rãi hơn, xuyên suốt bản thể của mọi hiện tượng vạn hữu thì "hiện tương nào cũng là hiện tượng của bản thể và không có bản thể nào ngoài hiện tượng cả". Cũng như sóng biển nhấp nhô là nước và thể tánh yên lặng êm đềm ở dưới lòng đại dương cũng là nước, bất khả phân ly. Phật giáo phủ nhận  có một đấng thiêng liêng nào ở ngoài có đủ tư cách sáng tạo, sắp xếp vấn đề nhân sinh vũ trụ. Trọng tâm của đạo Phật là diệt khổ để có an vui tự tại cho nên toàn bộ giáo lý của Đức Phật không ngoài mục đích hướng dẫn chúng sinh quay về sống với chơn tâm, Phật tánh của chính họ để có sự an lạc, thanh tịnh trong đời nầy. Đây mới chính là bản thể chân như của vạn pháp. Do đó khi nói về thế giới vô vi thanh tịnh, Đức Phật dạy rằng : "Phi nhơn duyên, phi tự nhiên, phi hòa, phi hợp, pháp nhĩ như thị" nghĩa là thật tánh vạn pháp chẳng do nhân duyên, cũng chẳng tự nhiên sanh, cái này hòa hợp với cái khác cũng không đúng mà thật ra vạn pháp sinh ra như thế nào thì phải thấy biết như thế ấy. Khác với khoa học là nghiên cứu tìm tòi ngoại cảnh, Phật giáo chỉ chủ trương quay về bên trong, trở về với "bản lai diện mục" tức là con người thật của chính mình. Nói cách khác, khoa học có thể được ví như một ngọn đèn chói tỏa khắp mọi nơi, trong khi đó ánh sáng huyền diệu của đạo Phật như một tia laser chuyên hội tụ vào một điểm mà thôi.

Thí dụ, khoa học ngày nay mới khám phá vũ trụ có được là do một vụ nổ lớn từ một vi tử (The Big Bang Theory) khoảng 13.7 tỷ năm về trước và từ đó những dãy Thiên Hà được tạo dựng. Trước năm 1913 vũ trụ đối với khoa học chỉ vỏn vẹn có dãy Ngân Hà (The Milky Way). Mãi sau khi Edwin Hubble đo được khoảng cách của dãy Thiên Hà Andromeda khoảng 900,000 năm ánh sáng thì vũ trụ mới được hiểu là do sự tạo thành của rất nhiều dãy Thiên Hà khác chớ không nhất thiết chỉ có dãy Ngân Hà mà thôi. Nhưng mãi đến năm 1965 tại phòng thí nghiệm của hảng điện thoại Bell, hai nhà khoa học Arno Penzias và Robert Dicke thuộc đại học Princeton vô tình khám phá những năng lượng rơi rớt lại trong không gian sau vụ nổ lớn 13.7 tỷ năm về trước và từ đó họ đưa ra thuyết "The Big Bang". Hiện nay vũ trụ vẫn còn nằm trong thời kỳ nới rộng cho đến khi tất cả những hành tinh nóng như mặt trời…đốt cháy hoàn toàn những nhiên liệu như Hydrogen, Helium…và lúc đó vũ trụ sẽ chìm vào bóng tối, băng giá. Sau đó vũ trụ sẽ thu trở lại thành vi tử như lúc ban đầu. Hiện tượng này gọi là The Big Crunch. Vì có nước và không khí nên sinh vật phát triển trên trái đất và con người hiện diện khoảng một triệu năm. Dựa theo thuyết tương đối của Einstein, khi vũ trụ nới rộng nghĩa là không gian được dãn nở trong mọi chiều thì các dãy Thiên Hà sẽ nguội dần nếu nó càng ở xa. Nhưng trên thực tế, khoa học ngày nay xác định là tuy có hàng tỷ dãy Thiên Hà cách xa trái đất mà nhiệt độ của chúng vẫn như nhau, không nguội dần như thuyết tương đối của nhà bác học Einstein. Thế thì thuyết "The Big Bang" làm sao đúng được? Khoa học không thể giải thích hiện tượng này nên bị bế tắt trong khoảng một thời gian dài cho đến khi Alan Guth, hiện là giáo sư của đại học kỷ thuật nổi tiếng MIT (Massachusetts Institute of Technology) ở Boston đưa ra thuyết "The Inflationary Universe" nghĩa là sự tăng trưởng theo lối lạm phát của vũ trụ. Dựa theo thuyết này thì khi vũ trụ nổ tung từ một vi tử cực nhỏ với sự tăng trưởng rất nhanh với tỷ số cực lớn là 1050 (Mười lũy thừa 50) . Đây được gọi là sự tăng trưởng lạm phát của vũ trụ. Sau đó quang năng, năng lượng và những vật thể nguội dần cho đến khi vũ trụ dãn nở đến mức tối đa. Đến thời điểm này, nhiệt độ của vũ trụ tự nhiên tăng lên và cuối cùng tất cả những dãy Thiên Hà cũng từ từ nguội dần dựa theo tiến trình nới rộng như ngày nay cho nên tất cả các dãy Thiên Hà có nhiệt độ gần giống như nhau. Mặc dầu Einstein đã khám phá thuyết lượng tử và thuyết tương đối lúc ông ta còn trẻ, nhưng suốt quảng đời còn lại ông hoạt động không ngừng mà vẫn không tìm ra một công thức vật lý cho vũ trụ được.

Ở đây chúng tôi mạn phép xin được giới thiệu đến quý vị một cách tóm gọn tiến trình khám phá mới nhất của khoa học về nhân sinh vũ trụ để thấy rằng tuy khoa học có tiến bộ cách mấy, có phát minh những máy móc rất tinh vi thì những khám phá của họ vẫn nằm trong vòng tương đối sinh diệt bởi vì tất cả những khám phá đó đều là "thuyết" chớ không phải là "chân lý". Mà đã là thuyết thì nay đúng mai sai, có gì bảo đảm. Thuyết là giả huyễn, sinh diệt, chân lý mới là sự thật vĩnh hằng, là Bản Thể tuyệt đối. Thí dụ, ngay cả nhà bác học nổi tiếng Einstein cũng tính sai, đoán lầm về vũ trụ. Ông ta cho rằng vũ trụ đang ở trạng thái quân bình, không tăng không giảm. Nhưng thật ra hiện giờ vũ trụ đang ở trong trạng thái nới rộng chớ đâu có quân bình. Ngược lại những gì mà Đức Phật chứng là chân lý chớ không phải luận thuyết. Chân lý là cái đúng ở mọi thời gian và không gian. Mà muốn nghiệm chứng được chân lý thì chỉ có một con đường duy nhất là tự mình tu chứng để nghiệm biết chớ không thể dùng ngôn ngữ văn tự của con người mà diễn giải ra được. Nói cách khác không có một phương trình vật lý hay một định lý toán học nào có thể diễn tả được chân lý cả.

Khác hẳn với những tôn giáo lớn khác trên thế giới đã cột chặt con người vào những giáo điều cứng ngắc để thọ lãnh những thưởng phạt bất công, đạo Phật luôn khuyến khích chúng sinh tự mình chứng ngộ chân lý, tự mình thể nghiệm Niết bàn, tự mình có được giải thoát giác ngộ mà đạo Phật chỉ là con đường, là phương tiện, là cỗ xe để giúp chúng sinh đạt đến những cứu cánh tối thượng này. Vũ trụ là thế giới sinh diệt, bản tâm mới chính là thế giới bất tử. Đó là tại sao Đức Phật lặng thinh khi Tỳ kheo Man Đồng Tử hỏi Ngài về thế giới siêu hình. Không phải là Ngài không biết, không thể trả lời, nhưng đó không phải là cứu cánh để có giải thoát giác ngộ mà chỉ làm tăng trưởng phiền não vô minh. Giả sử Đức Phật giải thích thế giới vũ trụ bắt đầu và thành hình như thế đó thì làm sao kiểm chứng được? Do vậy lời giải thích đó là chân thật hay chỉ là ảo thuyết? Nếu nói mà không thể chứng minh thì nói gì chả được, nhưng một người giác ngộ thì tuyệt đối không không bao giờ nói sai chân lý. Thí dụ cả mấy ngàn năm nay con người lầm lẫn cho rằng có chú cuội chị Hằng sống hạnh phúc sung sướng trên mặt trăng cho đến khi phi hành gia Armstrong đặt chân lên mặt trăng mà có thấy chú cuội chị Hằng đâu.  Do đó thay vì trả lời những câu hỏi siêu hình của tôn giả Man Đồng Tử, Đức Phật kể cho ông ta nghe câu chuyện một người bị mũi tên độc. Đối với Phật giáo khi thấy một người bị nhiễm tên độc thì vấn đề cấp thiết là giải phẩu để giải độc ngay mà cứu sống họ. Còn vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên thì không quan trọng. Bởi vì nếu không lo cứu chữa, thì người trúng tên độc sẽ chết trước khi biết được tông tích của hung thủ. Do đó vấn đề cấp thiết của con người và cũng là trọng tâm của đạo Phật là nhỗ mũi tên "khổ đau" chớ không phải đi tìm những câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực.

          Vào thời Đức Phật còn tại thế có một ẩn sĩ Bà-la-môn khi gặp ngài Xá Lợi Phất liền hỏi :
          - Niết bàn, Niết bàn, này ông bạn Xá Lợi Phất xin cho biết đó là cái gì vậy?
          Tôn giả Xá Lợi Phất bèn trả lời :
          - Sự tiêu diệt lòng tham muốn, sự tiêu diệt lòng nóng giận hận thù, sự tiêu diệt lòng si mê sai lạc là cái mà con người gọi là Niết bàn.
          Khi nói về Niết bàn, chính Đức Phật cũng dạy thêm rằng :
          - Nếu chúng sinh nào đã từ bỏ thú vui và tham muốn, đã đầy đủ trí tuệ thì họ đã đạt đến sự giải thoát sinh tử, sự tịch tĩnh, đã đạt đến Niết bàn tức là nơi an dưỡng thường tồn, vĩnh cửu ngay ở trong cõi đời nầy.
          Như vậy, Niết bàn không phải là một cõi, một cảnh, một tâm trạng và dĩ nhiên Niết bàn cũng không phải là cái hư vô. Rõ ràng Niết bàn không thể dùng văn tự ngôn ngữ của con người để diễn tả, vậy Niết bàn thật sự có hay không có?
          Trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo, Ngài Na Tiên đã trả lời câu hỏi tương tự như thế của vua Milinda rằng :
          - Tâu Hoàng thượng, thật sự có Niết bàn và Niết bàn chỉ có thể lấy trí mà nhận biết. Nếu chúng sinh giữ được tâm thanh tịnh và chánh trực, thoát khỏi các nghiệp chướng và thoát khỏi được các tham muốn thấp hèn thì chính họ sẽ thấy được Niết bàn.
          Nhà vua xin cho một thí dụ.
Ngài Na Tiên lại tiếp :
          - Hoàng thượng biết một cái gọi là gió, nhưng Hoàng thượng có biết gió màu sắc gì, hình dáng ra sao, nó dày hay mỏng, dài hay ngắn?
          Nhà vua đáp :
          - Gió thì vô hình vô sắc làm sao chỉ được. Tuy không chỉ được, nhưng nó vẫn có.
          Bây giờ Tỳ Kheo Na Tiên mới kết luận :
          - Cũng thế, tâu Hoàng thượng, Niết bàn là cái thật sự có mà không thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả cho con người thấy được hình sắc của nó.
          Thế thì làm sao biết được Niết bàn, nhà vua lại hỏi.
          - Nhờ sự thoát khỏi phiền não, nghiệp chướng, nhờ sự an ổn, an lạc thanh tịnh thì có được Niết bàn.

          Rồi ngài Na Tiên lại tiếp :
          - Như người té vào đống lửa ngùn ngụt, nếu họ cố gắng vượt ra khỏi và lên đựoc chỗ mát thì người ấy sẽ cảm thấy sung suớng vô cùng. Cũng thế, người thoát khỏi lửa của tham, sân, si sẽ huởng cái sung sướng an tịch của Niết bàn. Cũng như người thoát ra khỏi những tâm niệm bất thiện, người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết bàn. Và sau cùng những ai thoát khỏi cái lo sợ của sanh, lão, bệnh, tử người ấy sẽ hưởng cái sung sướng Niết bàn.
Do đó đối với nhân sinh vũ trụ, Đức Phật dạy rằng tất cả hiện tượng đều là : "Đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận" nghĩa là sanh ra ngay từ nơi này và diệt mất cũng ngay nơi này. Vì thế, đối với Phật giáo, tâm thanh tịnh mới là cứu cánh vì khi có được tâm thanh tịnh, chúng sinh sẽ nghiệm chứng chân tướng của vạn pháp. Mà chân tướng là vô hình vô sắc thì làm sao mà giải thích được. Vì thế Vĩnh Gia đại sư trong Chứng Đạo Ca có câu :
          Mộng lý minh minh hữu lạc thú
          Giác hậu không không vô đại thiên
Tạm dịch :
          Trong mộng, sáu đường vằng vặc có
          Giác rồi, tam giới rỗng toang hoang.
        
Ngày xưa, trước khi quy y theo Phật, Mã Minh là một luận sư danh tiếng. Vì nghe tiếng của Hiếp Tôn giả nên tìm đến thách thức luận chiến và đánh cuộc bằng chính thủ cấp của mình. Mã Minh đưa ra đề tài tranh luận rằng:"Tất cả ngôn ngữ đều có thể bị phủ định" nghĩa là cái gì nói ra được thì có chỗ sai lầm. Nghe xong Hiếp Tôn giả im lặng. Mã Minh thấy Hiếp Tôn giả không trả lời được cho rằng mình thắng nên sinh tâm kiêu mạn mà cho rằng Hiếp Tôn giả chỉ là hư danh, không phá nổi luận điểm của mình. Một thời gian sau, Mã Minh nghiệm biết sự sai lầm của mình vì câu nói của Mã Minh tự nó đã bị phủ định rồi. Y như giao ước, Mã Minh tìm đến để giao thủ cấp cho Hiếp Tôn giả. Nhưng Hiếp Tôn giả bây giờ mới nói : "Tôi không cần cắt thủ cấp của ông, mà chỉ cần cắt tóc của ông thôi". Từ đó, Mã Minh tôn Hiếp Tôn giả làm thầy và về sau trở thành vị đại luận sư rất nổi tiếng của Đại thừa. Một lần nữa, văn tự ngôn ngữ không phải là chân lý vì chúng là tương đối, sinh diệt.

Thiên Chúa giáo, Hồi giáo hay Tin lành chỉ tin có một Thượng đế duy nhất thì gọi là nhất thần giáo. Trong khi đó, đạo Khổng hay đạo Lão tin vào nhiều đấng thần linh nên những đạo này được gọi là đa thần giáo.

Ngược lại, đạo Phật không phải là nhất thần giáo, cũng chẳng là đa thần giáo mà cũng không phải là giáo điều chủ nghĩa tức là vị giáo chủ đưa ra bất cứ giáo điều gì cho dù đúng hay sai thì tín đồ bắt buột răm rắp tuân theo. Chính Đức Phật đã khẳng định rằng :
"Ta không là Thượng đế, cũng không phải là thần linh, mà chỉ là một con người, nhưng con người đã chiến thắng thế gian".

Đức Phật đã chiến thắng thế gian, nhưng Ngài không cần ngai vàng để ngự trị và cũng không cần thần dân để được tôn vinh. Ngài sống rất thảnh thơi với ba mảnh y và một bình bát, nhưng chiến thắng được tâm mình để sống với chơn tánh mới là cái chiến thắng vĩ đại của bậc Đại giác, Đại hùng vậy. Chỉ sau khi Ngài nhập diệt, con người mới tôn thờ Ngài, sùng tín Ngài như các vị thần linh. Tóm lại, Đức Phật chỉ là một đạo sư, là ngọn đuốc tuệ để giúp chúng sinh nương theo đó mà tìm ra con đường sáng, con đường giải thoát giác ngộ cho chính mình.

Để giải thích mối quan hệ giữa lòng tin và trí tuệ, Đức Phật dạy rằng :
"Người có lòng tin mà không có trí tuệ thì thường làm tăng trưởng vô minh. Người có trí tuệ mà không có lòng tin thì thường làm tăng trưởng tà kiến".

Trí tuệ ở đây cần được hiểu là năng lực suy xét và phán đoán mọi sự việc cho nên nếu trí tuệ không có lòng tin vào Chánh pháp thì người tu tập dễ rơi vào tà kiến, tăng trưởng tự cao, tự đại, luôn cố chấp không thấy được chỗ sai lầm của mình. Ngược lại, người có lòng tin vào Chánh pháp mà thiếu đi trí tuệ để nhận hiểu và phân biệt đứng đắn thì dễ dàng lún sâu vào chỗ si mê, tăm tối, mê tín dị đoan. Vì thế mà trong Bát Chánh Đạo tức là tám con đường chân chính giúp chúng sinh chuyển cuộc sống từ phàm đến thánh chỉ có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định mà không hề có chánh tín. Đức Phật không phải là đấng thần linh nên Ngài không bắt buộc chúng sinh phải tin vào Ngài một cách tuyệt đối. Ngược lại, Đức Phật dạy chúng sinh phải tư duy quán chiếu, suy nghiệm những lời Phật dạy một cách khách quan, đứng đắn thì mới có lợi ích cho mình. Đức Phật muốn chúng sinh thấu hiểu chánh pháp để thấy biết đúng, suy nghĩ đúng mà có cuộc sống thanh bình an lạc thì lúc đó con người đâu còn tin vào tà kiến, mê tín dị đoan. Vì thế hãy lắng nghe thông điệp của Đức Phật chính là con đường sống cao thượng của cuộc đời :
"Hãy tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống bằng những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ bất tịnh".
Trước khi nhập diệt, Đức Phật dạy rằng:
"Các con là những hải đảo, những ngọn đuốc cho chính mình. Hãy nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào nơi nào khác".
Trong kinh Pháp Cú, Phật lại dạy thêm :
"Các con hãy tự thắp đuốc lên mà đi! Các con hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hãy theo Pháp của ta mà tu giải thoát! Đừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các con".
Và sau cùng Đức Phật dạy rằng :
"Các con hãy tự cố gắng, Như Lai chỉ là kẻ dẫn đường".

Đạo Phật là tôn giáo duy nhất trên hoàn cầu xác định rằng cánh cửa thành công để đạt đến cứu cánh giải thoát giác ngộ phải mở rộng cho tất cả mọi người, từ nam nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao thấp, đạo đức hay tội lỗi. Nếu chúng sinh biết cải thiện đời sống trong sạch, hóa giải hết phiền não vô minh thì sẽ có được Bồ-đề, Niết bàn như Phật.

Từ xưa đến nay, lý trí và đức tin luôn chống đối với nhau. Lý trí thì dùng lý luận và suy tư phát xuất từ kinh nghiệm và nhận xét, trong khi đức tin nằm trong phạm vi tình cảm, không thể suy luận, suy xét hay giảng giải được. Do đó những tôn giáo thần khải thì đức tin là thượng đế cảm nhận bằng trái tim, không phải bằng lý trí. Tình thương phát xuất bằng trái tim thì dựa vào tình cảm nên rất thăng trầm vì thế nó có lúc đúng, có lúc sai, có lúc thương có lúc ghét. Ngược lại lòng từ bi phát xuất từ trí tuệ sáng suốt thì dựa theo tinh thần khách quan bình đẳng, không thiên vị. Thêm nữa, đối với những tôn giáo thần khải thì thần thông, phép lạ là quan trọng. Ngược lại Đức Phật coi đó là không đáng kể và không thích đáng bởi vì điều quan trọng nhất vẫn là bồi dưỡng trí tuệ để có giải thoát giác ngộ. Đối với đạo Phật, những người có phép lạ không nhất thiết là bậc giác ngộ hay các bậc Thánh cho nên theo Đức Phật, thần thông phép lạ cao siêu nhất và huyền diệu nhất phải là làm sao biến một người ngu si thành một người khôn ngoan, trí tuệ.

Vậy đạo Phật có phải là một tôn giáo không?

Dựa theo lời giải thích của học giả H. G Wells thì tôn giáo là trung tâm của giáo dục xác định luân lý phẩm hạnh của con người.
Triết gia Aldous Huxley định nghĩa tôn giáo như sau :
- Tôn giáo là một hệ thống giáo dục, bằng các phương tiện con người có thể tự mình huấn luyện cho mình. Trước hết là thay đổi cái mình mong muốn cho đúng với nhân cách của mình trong xã hội. Thứ hai là nâng cao lương tri và thiết lập quan hệ giữa con người và vũ trụ mà họ là một thành phần trong đó.

Thông thường tôn giáo luôn đi đôi với tín ngưỡng vì thế tất cả những tôn giáo trên thế giới đều tin tưởng đấng thần linh này, đấng cứu rỗi nọ, ông trời mình và ông trời người. Duy chỉ có Phật giáo là không tin vào thần linh, không tin vào thượng đế, không tin vào ai cả mà chỉ tin vào khả năng tự mình có thể giải thoát ra khởi mọi hệ lụy của phiền não vô minh cho chính mình mà Đức Phật là người dẫn đường, là bậc toàn giác.

Đạo Phật khai mở một hệ tư tưởng triết học rất thâm thâu huyền diệu dựa vào tư tưởng tánh Không (Bát nhã) để dẫn dắt chúng sinh quán triệt thật tướng của vạn pháp chớ không nhất thiết chỉ thấy biết vạn pháp qua thế giới hiện tượng. Những lời dạy thâm sâu của Đức Phật để đưa tâm quy về một trạng thái tinh thần tĩnh lự và sáng suốt được nhiều người cho đó là tôn giáo, người khác lại cho là triết học hay tâm lý trị liệu. Vì vậy, khi đề cập đến thế giới bản thể và hiện tượng là một vấn đề rất quan trọng, một vấn đề mang tính triết học sâu xa, nếu con người nhìn nó qua lăng kính của triết học. Nhưng đối với Phật giáo, cho dù con người có gọi nó là tôn giáo, nền giáo dục, môn triết học hay là gì đi chăng nữa thì điều đó chẳng có giá trị thêm bớt gì vì lý luận là còn nằm trong vòng lẩn quẩn của Nhị nguyên, của thế giới tương đối có sinh có diệt. Mà điều quan trọng hơn hết là những lời thuyết pháp của Đức Phật nhằm nói lên chân lý khách quan, nói lên cái nguyên thủy của sự hình thành và sự tồn tại khách quan của vũ trụ vạn hữu. Nhưng cho dù con người có lý luận dựa theo bất cứ khía cạnh, phương diện nào thì có một điều chắc chắn mà mọi người đều đồng ý rằng Đức Phật không phải là đấng thần linh, đấng cứu rỗi mà Ngài chỉ là đấng toàn giác, là bậc thầy vĩ đại mà thôi.

Vì vậy, đạo Phật có thể được gọi là một tôn giáo không có tín ngưỡng
. Tại sao lại không có tín ngưỡng? Bởi vì đạo Phật là con đường giúp chúng sinh tự mình thể nghiệm chân lý để có giải thoát giác ngộ mà không tin có một đấng Thượng đế, một đấng thần linh nào đó có thể ban vui cứu khổ hay cứu rỗi cho họ được. Mà muốn đạt đến cứu cánh tột đỉnh này, người đệ tử Phật bắt buộc phải có niềm tin. Nhưng niềm tin ở đây là tin vào lời dạy chân thật của Đức Phật là người đã thực chứng những chân lý nhiệm mầu bởi vì lời dạy của Phật là : "Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả" nghĩa là lời nói của Phật là chân chính, là thành thật, không tráo trở và không bao giờ dối trá. Quan trọng hơn là người đệ tử Phật phải tin chính mình có khả năng hóa giải, diệt trừ mọi vô minh phiền não để đạt được tâm thanh tịnh mà có Niết bàn, có Bồ-đề cũng như chư Phật, chư Bồ-tát vậy. Đức Phật dạy chúng sinh phát triển những tiềm năng và nỗ lực của chính bản thân mình để đạt đến trạng thái an lạc và hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Do đó hạnh phúc hay khổ đau là do nơi con người chớ không tùy thuộc vào một đấng quyền năng tuyệt đối nào và Đức Phật chỉ là một bậc thầy hướng đạo.

Do đó nếu nói Thượng đế là đấng toàn năng toàn thiện thì tại sao Ngài lại sáng tạo cái thế giới con người đầy dẫy tội lỗi đau thương? Tại sao Ngài tạo ra biết bao nhiêu cảnh tai trời ách nước, tàn phá, giết hại chúng sinh? Như thế thì lòng bác ái của Ngài ở đâu? Vậy sự cầu nguyện có làm bớt thiên tai, dịch họa, chiến tranh hay khổ đau của con người được không? Vì thế Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu thần linh trong cuộc sống của con người. Theo tinh thần Phật giáo thì chính con người phải tự mình giải quyết những vấn đề như chiến tranh hay hòa bình, hạnh phúc hay khổ đau của chính mình. Chiến tranh hay hòa bình là do con người quyết định chớ không dính dấp gì tới Phật trời cả. Nếu con người biết sống khoan dung độ lượng để biết thương yêu nhau thì họ biến chiến tranh thành hòa bình, ngược lại nếu các nhà lãnh đạo chạy theo những tham vọng đen tối thì từ hòa bình thành chiến tranh giết chóc thế thôi. Thêm nữa, do sự chuyển động của trái đất, của núi lửa, của những cơn gió lốc…theo định luật vô thường : thành, trụ, hoại, không đã tác hại con người. Nói chung thì đó cũng là do lòng tham của con người phá hũy môi trường sống của chính mình qua chiến tranh, qua những cuộc thí nghiệm nguyên tử, qua tàn phá thiên nhiên, đốt rừng tiêu hủy cây cối…tạo nên những ảnh hưởng dây chuyền nguy hiểm cho nhân sinh. Con người cũng vì muốn thỏa mãn lòng tham mà đi ngược lại với thiên nhiên nên hàng ngày lấy lên từ lòng đất, từ lòng biển hàng triệu thứ từ kim cương đến vàng, bạc, nhôm, sắt, khí đốt, dầu hỏa rồi lại thải ra hàng triệu tấn chất độc tác hại gây ra lầm than qua thiên tai, động đất, sóng thần, bảo lụt, hạn hán…Vì thế con người không thể tin rằng có một Thần linh nào đó có thể nhẫn tâm trừng phạt, hủy diệt loài người và gây đau thương chết chóc tang tóc khắp mọi nơi. Khi liễu ngộ như thế con người không phải sợ hãi thần linh, tôn thờ thần linh, van vái và cầu xin ở thần linh nữa.

Tóm lại, đạo Phật không phải là đạo đổi chác, không phải là đạo ban bố phép mầu và cũng không phải là đạo hứa hẹn. Sự giải thoát giác ngộ hay sự an lạc thanh tịnh Niết bàn thật ra tự chúng sinh đem lại cho mình chớ Phật không ban bố cho ai cả. Vì thế, tuy đạo Phật là đạo của từ bi, trí tuệ và lòng dũng cảm, nhưng nếu con người không tin vào lòng từ bi để thương yêu, ban vui cứu khổ để cứu giúp chúng sinh; vào khả năng phát triển trí tuệ để chứng đạt chân lý ngỏ hầu thấu biết được thật tướng nhân sinh vũ trụ và lòng dũng cảm để vượt qua sóng gió chập chùng mà chiến thắng được vô minh phiền não của mình mà chỉ muốn cầu xin, van vái thần linh để có hạnh phúc thì con đường họ đi chắc chắn " không phải" là đạo Phật.


Lê Sỹ Minh Tùng

Mỹ chọn đồng minh ở Á Châu

Mỹ chọn đồng minh ở Á Châu


 Lý Nguyên Diệu

Cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975 đã chia các tác giả Mỹ viết sách chính trị hoặc lịch sử ra làm hai phe: Chống đối và ủng hộ việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam,  mà họ mệnh danh là phái "chính thống" (orthodox) thì chống đối và phái "xét lại" (revisionist) thì ủng hộ.

Một cách tổng quát, phái Chính thống gồm những tác giả như N. Chomsky, D. Halberstam, F. Fitzgerald, W. Fishel với quan điểm nước Mỹ đã sai lầm khi can thiệp vào Việt Nam là một "đồng minh" bất lực. Phái Xét lại gồm những tác giả như E. Hammer, N. Podhoretz, M. Moyar thì chủ trương ngược lại. Điều đáng chú ý là những tác giả thuộc Chính thống lại gồm rất nhiều người trong quá khứ đã từng ủng hộ ông Ngô Đình Diệm như J. Buttinger, M. Mansfield, D. Anderson và ngay cả Hồng Y Spellman nhưng sau đó thì hoàn toàn thất vọng, thậm chí còn chống đối lại ông Diệm và chế độ của ông ta.
 

Cho độc giả người Việt, những tác giả thuộc phái Xét lại thường phạm những lỗi lầm căn bản về văn hoá Việt Nam làm cho không còn tin tưởng để đọc tiếp. Lấy thí dụ của hai trường hợp tiêu biểu:

Thứ nhất là Francis X. Winters, giáo sư Đại học Georgetown, tác giả cuốn "The Year of the Hare: America in Vietnam", University of Georgia Press xuất bản năm 1988. (Được hai ông cựu Bộ trưởng chế độ Diệm là Lâm Lễ Trinh và Tôn Thất Thiện, dĩ nhiên, hết lời ca ngợi). Sách nầy có những sai lầm như: Hồ Chí Minh sinh ở bên bờ sông Hương ở Huế, Thích Trí Quang là một luật sư thành công, đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu năm 1962. Ông Winters đã phải thú nhận những lỗi lầm sơ đẳng nầy khi bị một độc giả nêu ra trên tập san hữu khuynh National Review năm 1989. Điều đáng buồn là ngay cả cái tựa sách ("The Year of the Hare" -để chỉ năm Qúy Mão, của cuộc đảo chánh 1963) đã cho thấy tác giả không phân biệt được văn hoá Việt và Tầu.

Thứ hai là Mark Moyar, giáo sư Đại học Thủy quân Lục chiến Mỹ, tác giả cuốn "Triumph Forsaken: The Vietnam War 1954-1965", Cambridge University Press xuất bản năm 2006. (Cũng lại được ông Lâm Lễ Trinh khen ngợi hết lời). Cuốn sách nầy cũng chú trọng đến thời kỳ cai trị của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng phân tích của tác giả thì quá sức nông cạn. Khi nói về ông Ngô Đình Nhu, tác giả khen là "một vị lãnh đạo tài giỏi, đã làm cho ông trở thành một trong những nhà tổ chức chính trị hữu hiệu nhất của Nam Việt-Nam."(trang 35) Người Việt Nam, kể cả trùm mật vụ Trần Kim Tuyến (trong sách "Những Huyền Thoại và Sự thật về Chế độ NĐD" của Vĩnh Phúc) cũng phải chê đảng Cần Lao Nhân Vị, tổ chức Thanh Niên Cộng Hoà (TNCH) mà ông Nhu làm Thủ lãnh. Nói về "hữu hiệu" thì ai cũng biết trong ngày đảo chánh 1/11/63, cả cái tổ chức TNCH ấy chỉ có một ông Cao Xuân Vỹ làm việc, còn Phong trào Cách mạng Quốc gia và nhất là đảng Cần Lao Nhân Vị trước đó hét ra lữa thì nay hoàn toàn lặn đi đâu mất. Ba lực lượng chính trị do ông Ngô Đình Nhu "tổ chức" đó, khi chế độ lâm nguy và lãnh tụ bôn tẩu, thì tan như bọt xà phòng ! Còn cuộc đảo chánh giả Bravo do chính ông Nhu tổ chức bằng cách dựa vào tướng Tôn Thất Đính thì ông tướng nầy đã bị Đại tá Đỗ Mậu "tổ chức" rồi. Ngoài ra, cuốn sách dày 512 trang của Moyar phân tích chế độ Diệm mà chỉ nhắc tên ông Ngô Đình Thục 2 lần trong … 2 dòng, trong khi nhà văn hoài Ngô của năm 2010 là Nguyễn Văn Lục cũng phải công nhận rằng hai người có trách nhiệm nặng nhất làm cho nhà Ngô sụp đổ là ông Giám mục Thục và bà Ngô Đình Nhu.


Với những tác giả như vậy trong phái Xét lại, tác phẩm của giáo sư Seth Jacobs đã xuất hiện như một hải đăng chửng chạc chiếu sáng vào vùng sương mù của một cuộc tranh chấp đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi.

Tác phẩm "America's Miracle Man in VietNam – Ngo Dinh Diem, Religion, Race, and U.S. Intervention in Southeast Asia" của tác giả Seth Jacobs, giáo sư Sử học tại Boston College, nguyên là một luận án tiến sĩ viết năm 1997. Sau đó, ông đã thu thập thêm tài liệu mới giải mật và cập nhật hoá rồi xuất bản cuốn sách nầy năm 2004 và tái bản năm 2006 (Duke University Press). Chủ đề của luận án nầy là lý do vì sao người Mỹ can thiệp vào Việt Nam và về sau đã trở thành một lỗi lầm tàn khốc cho "đồng minh" Việt Nam và cho chính cả nước Mỹ mà một nửa thế kỷ sau vẫn còn nhiều di chứng. Đó là một cái nhìn can đảm vì tác giả đã đề cập đến hai chủ đề "không nên bàn cải": Tôn giáo Chủng tộc. Một cách tổng quát, luận án của Seth Jacobs gồm hai phần chính. Bốn chương đầu chứng minh chính sách ngoại giao của Mỹ sau Đệ Nhị Thế chiến bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố: Tôn giáo, Chủng tộc và Chủ thuyết Cộng sản. Hai chương cuối phân tích tiến trình quyết định của chính quyền Mỹ đã dựa trên ba yếu tố đó để chọn ông Ngô Đình Diệm về Sài Gòn lãnh đạo một "tiền đồn chống Cộng cho thế giới tự do" của Mỹ.


Phần đầu của sách phân tích 3 yếu tố chỉ đạo của chính sách đối ngoại Mỹ sau thế chiến thứ Hai có thể tóm lược như sau:

■ Về Tôn Giáo, luân lý nước Mỹ được dìu dắt bởi những khuôn mặt đáng nể như Mục sư Billy Graham (Tin Lành), Hồng y Francis Spellman (Công giáo). Mục sư Graham là bạn của 11 đời Tổng thống Mỹ, từ Eisenhower đến Obama, và sở hữu một đế quốc truyền đạo (evangelical empire) khổng lồ. Đặc biệt Hồng y Spellman, theo đúng đường lối chống Cộng sản triệt để của Vatican, nắm chức Tổng Tuyên úy của quân đội Mỹ (Military vicar of the U.S. armed forces). Khi qua Việt Nam năm 1955, dù chỉ là một chức sắc tôn giáo, ông dược Tổng thống Diệm tiếp đón như một quốc khách với đại tiệc tại Dinh Độc Lập. Năm 1952, Kinh thánh bán được 26.5 triệu cuốn trên toàn nước Mỹ. Hai siêu đại gia trong ngành truyền thông là DeWitt Wallace và Henry Luce, đều là con các nhà truyền giáo Tin lành, và siêu đại gia thứ ba là Randolf Hearst Jr. đã sử dụng tối đa các cơ quan truyền thông để truyền đạo Chúa dù tờ báo của họ là Life, Time, hay Popular Science, Mademoiselle, Fortune. Tác giả Jacobs cũng đã dành nguyên một chương (số Bốn) để nói về bác sĩ quân y Tom Dooley là một người Công giáo cuồng tín, kỳ thị chủng tộc đã gián tiếp đẩy nước Mỹ dính vào với Việt Nam qua cuộc di cư năm 1954 trong hình ảnh một đại thảm họa Cộng sản đang ụp lên đầu những người Việt Nam (mà ông thường gọi là "dân Á Đ ông" (the Asians) yếu đuối, khờ dại, dốt nát.
 
■ Về Chủng Tộc, giữa thế kỹ 20, người dân Mỹ có một khái niệm rất mơ hồ về những quốc gia ngoài nước Mỹ. Nhất là các nước Phi châu và Á châu. Sự "mơ hồ" nầy đưa đến tình trạng tổng quát hóa chủng tộc, coi tất cả dân Phi châu là da đen (Black) và dân Á châu là da vàng mà người Mỹ gọi là "Asian". Siêu đại gia Henry Luce đã khởi đầu tình trạng nầy bằng cách yểm trợ nhà văn James Michener xuất bản một loạt sách về Á châu để "dạy" người Mỹ những "sự thật" về một giống dân Á châu "đơn giản, ngu dốt, vô chính trị" chưa thể có khả năng để tiếp nhận và sử dụng những khái niệm của Tây phương như dân chủ, tự do, nhân quyền. Bên cạnh đó, Hollywood cũng sản xuất những phim như The King and I, Sayonara, The Geisha Boy, … đưa ra hình ảnh những người Á Đông, chậm chạp, bán khai cần được "khai hoá". Ngay cả cuốn "The Quiet American" nổi tiếng của Graham Green, được phe tiến bộ khen tặng nhưng khi nói về Phượng, người tình của ký giả Fowler, tác giả cũng cho thấy một cô gái Việt Nam da vàng ngu ngơ và an phận.

■ Về chủ thuyết Cộng sản (đang được xây dựng ở Nga Sô và Trung Quốc) người Mỹ được giáo dục từ trong trường học ra đến cuộc sống thực tiển rằng đây là hiểm họa lớn nhất của nước Mỹ về kinh tế (Tư bản chống Vô sản), về chính trị (Tự do, Dân chủ chống Độc tài, Độc đảng), về văn hoá (Tự do tư tưởng chống Kiểm duyệt tư tưởng), về tôn giáo (Hữu thần chống Vô thần), về quân sự (Bom A chống Bom A). Năm 1954, sau khi Trung Hoa lục địa và Bắc Hàn trở thành Cộng sản, Tổng thống Eisenhower nhìn Việt Nam như con bài thứ ba sẽ rơi vào tay Cộng sản và ông đã đưa ra "thuyết Domino" làm cho nước Mỹ càng cương quyết hơn trong chủ trương chống Cộng.
 
Phần thứ hai của cuốn sách đặt trọng tâm trên tiến trình chọn lựa đồng minh của Mỹ dựa theo ba tiêu chuẩn đã trình bầy để hoàn tất chiến thuật "ngăn chận Cộng sản Nga Tầu" (containment) của nhà ngoại giao George F. Kennan. Là đồng minh với Mỹ nghĩa là trước hết phải chống Cộng, thứ hai là phải không có vấn đề chủng tộc, thứ ba là theo môt tôn giáo mà người Mỹ cảm thấy thoải mái.

Theo những tiêu chuẩn nầy, các nước Tây Âu da trắng theo đạo Thiên chúa và chống Cộng được coi như đồng minh hạng số một. Và Mỹ đã lập ra NATO (Tổ chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương) năm 1949 để làm trái độn cho Mỹ chống Nga Sô ở ngay bên cạnh các nước Tây Âu. Cũng phải nói thêm trường hợp nước Ý sau Đệ Nhị Thế Chiến, tuy có một đảng Công sản rất mạnh (năm 1970 vẫn có 1/3 dân Ý bầu phiếu cho đảng nầy), nhưng vẫn được Mỹ nhận cho làm hội viên của NATO là vì sự có mặt của Vatican tại La-Mã có khả năng hoá giải ảnh hưởng của chủ thuyết vô thần nầy.

Xong phần NATO chống Nga Sô đến phần chống Tàu, nước Mỹ sửa soạn một "vòng đai ngăn chận" gồm 9 nước từ Nhật qua Hàn quốc xuống Đài Loan, Phi Luật Tân, Việt Nam Cộng Hoà, Indonesia, Thái Lan, Miến Điện và Ấn Độ. Trong 9 nước nầy, Ân Độ là cựu thuộc địa của Anh quốc nên nước Mỹ không dính vào. Thái Lan và Miến Điện có đạo Phật là quốc giáo và Indonesia có đại đa số dân theo Hồi giáo làm cho thành phần thân Do Thái trong chính quyền Mỹ không muốn liên hệ chặt chẽ.

Chỉ còn lại Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Hàn, Việt Nam Cộng Hoà và Nhật bản. Theo tác giả Seth Jacobs, đây là những nước có lãnh tụ chính trị theo đạo Thiên Chúa, trừ Nhật, đã được chính quyền Mỹ chọn làm "đồng minh" dựa theo ba tiêu chuẩn kể trên, trong những năm đầu tiên của cuộc Chiến tranh Lạnh.
 
1. ĐÀI LOAN: Từ khi thay thế Tôn Dật Tiên làm Tổng thống Trung Quốc và Chủ tịch Quốc Dân đảng năm 1928, Thống chế Tưởng Giới Thạch phải cầm đầu cuộc chiến chống quân xâm lăng Nhật và cuộc nội chiến chống Cộng sản của Mao Trạch Đông. Một năm sau, ở tuổi 42, khi muốn cưới Tống Mỹ Linh, vốn là con gái một nhà truyền giáo, Tưởng Giới Thạch đã ly dị vợ rồi đổi từ một Phật tử thành tín đồ đạo Tin lành (tương tự như ông tướng Nguyễn Văn Thiệu bỏ đạo Phật theo đạo vợ). Và (cũng như ông Ngô Đình Diệm) họ Tưởng được báo Time năm 1931 đăng hình bìa nhiều lần và ca ngợi là "nhân vật vĩ đại nhất của Viễn Đông". Ông được báo chí Tin Lành và Công giáo tranh nhau phỏng vấn (hệt như ông Diệm, họ ca ngợi Tưởng Giới Thạch là một người "ngoan đạo và thánh thiện") đến nổi nhiều nhà phân tích đã nghĩ là Tưởng Thống chế đang sử dụng tối đa chuyện đổi đạo của mình để lấy lòng dư luận Mỹ. Nhưng dù được sự ủng hộ triệt để về quân sự, kinh tế, chính trị và nhất là của giới truyền thông Mỹ, chế độ độc tài, tham nhũng quá độ của Tưởng Giới Thạch cũng đã đại bại trước Hồng quân của Mao Trạch Đông.

Năm 1949, Thống chế họ Tưởng xách tàn quân chạy qua tỵ nạn ở đảo Đài Loan, mơ một ngày về giải phóng Bắc Kinh không bao giờ trở thành hiện thực. Dù vậy, Tưởng Thống chế vẫn được Thiên Chúa giáo Mỹ tiếp tục bênh vực. Dân biểu Walter Judd, một cựu giáo sĩ từng truyền giáo bên Trung Quốc, đã không ngượng ngùng bênh họ Tưởng: "Chúng ta không đòi hỏi kẻ thù phải cải tổ, nhưng với đồng minh thì chúng ta bắt phải có dân chủ, phải tôn trọng nhân quyền – ngay tức khắc. Dân Mỹ đã chờ 175 năm mới có được một nền dân chủ nhưng Nam Hàn, Đài Loan, Nam Việt Nam thì phải có dân chủ ngay tức khắc … Đối với dân Á đông, đây qủa là một sự khó hiểu. Tưởng Giới Thạch, không phải là một kẻ ngoại đạo, dã man mà là một con chiên của Chúa." Nhận xét cuồng tín nầy cũng không khác gì câu của một ông Linh mục Việt Nam khác: "Ông Thiệu là một người tôi kính phục, một người có tinh thần quốc gia cao độ và cương quyết chống Cộng. Ông Thiệu là một người Công giáo đạo đức, chủ nhật nào cũng di nhà thờ xem lễ, và trước khi đi ngủ hai ông bà cùng nhau đọc kinh." ("Bên Giòng Lịch Sử", Cao Văn Luận, trang 363 - Nghĩa là Linh mục Luận có mặt trong dinh Độc Lập mỗi đêm trước khi ông bà Thiệu đi ngủ!)


2.
PHI LUẬT TÂN: Ramon Magsaysay là một sĩ quan theo đạo Công giáo trong quân đội Phi Luật Tân. Ông đắc cử tổng thống năm 1953 với lập trường chống Cộng sản triệt để và đồng minh chặt chẻ với Mỹ. Tổng thống Magsaysay chết quá sớm trong một tai nạn máy bay năm 1957 nên khó có thể đi đến một kết luận rõ ràng về mối liên hệ giữa ông và Mỹ ngoài hai thành qủa rất được người Mỹ ca tụng: Tiêu diệt lực lượng Phi Cộng Hukbalahap và giúp Mỹ thành lập Tổ chức Minh ước Đông Nam Á (SEATO) vào năm 1954 để bao vây Trung Cọng. Magsaysay là một trong những trường hợp hiếm hoi mà liên hệ đồng minh của Mỹ có thể được coi như là thành công.

Kết qủa nầy đến từ sự kiện ông Magsaysay đã đạt được cao điểm trong cả ba yếu tố chọn lựa đồng minh của Mỹ. Chính trị và truyền thông Mỹ ủng hộ ông tối đa vì hai yếu tố Công giáo và chống Cộng. Bên cạnh đó, yếu tố chủng tộc cũng không là một trở ngại vì sau ba thế kỷ rưỡi liên tục bị đô hộ bởi ba đế quốc Thiên Chúa giáo(Tây Ban Nha, Anh và Mỹ), Phi Luật Tân đã thành một quốc gia không còn căn cước văn hóa đặc thù của chính mình nữa: Quốc gia nầy mất tên:: "Philippines" lấy từ tên của dòng họ Philip của các vua Công giáo Tây Ban Nha. Và mất ngôn ngữ vì tuy tiếng nói chính thức là Tagalog, nhưng cả nước, nhất là giai cấp từ trung lưu trở lên chỉ dùng tiếng Anh (ngay cả trong những hồ sơ chính thức), hệ qủa của một chương trình giáo dục sâu đậm và rộng rãi của các trường Giòng Công giáo trong thời kỳ đô hộ giống như người Pháp đã cố gắng áp dụng ở Việt Nam. Tuy Phi Luật Tân làm tròn bổn phận "tiền đồn chống Cộng" cho Mỹ, nhưng xã hội Phi vẫn nổi tiếng với nạn đĩ điếm và tội ác xã hội dù hơn 80% dân Phi theo đạo Công giáo, người dân Phi vẫn nghèo đói dưới những chế độ độc tài, tham nhũng như Ferdinand Marcos (hãy tưởng tượng Việt Nam không có một Tổng thống Ngô Đình Diệm mà thay vào đó mọi người sẽ suy tôn Tổng thống Gioan Baotixita Ngô Muôn Năm!).


3.
NAM HÀN: Tổng thống Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee) có khá nhiều điểm giống ông Ngô Đình Diệm. Ông xuất thân từ một gia đình quan lại. Trước khi nắm chính quyền ông cũng đã trãi qua một thời gian ở Mỹ. Ông được chính quyền Mỹ ủng hộ vì đã đổi theo đạo Chúa (Tin Lành) và rất chống Cộng. Báo Reader's Digest tuyên dương ông là một "nhà lãnh đạo Gia tô vĩ đại". Cũng như Tổng thống Diệm sau khi dẹp được các giáo phái, Lý Tổng thống đã được tướng James Van Fleet, Tư lệnh Quân đoàn 8 của Mỹ ở Nam Hàn khen ngợi: "Lý Tổng thống đã biến đổi một quốc gia lạc hướng và hỗn loạn thành một trong những tiền đồn chống Cọng hùng mạnh nhất thế giới". Tuần báo Time của đại gia Henry Luce so sánh ông với George Washington và, trong tinh thần "khai hoá" kiểu thực dân Tây, đã cho rằng dân trí Hàn Quốc "chưa phát triển đến mức có thể có một nền dân chủ kiểu Jefferson của Mỹ". Năm 1945, Nhật bản bại trận, ông theo quân Mỹ về nước. Ba năm sau ông được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc như ông Diệm năm 1955. Trong thời kỳ nắm quyền, chế độ Lý Thừa Vãn cũng có một nét giống chế độ Diệm là dùng lý do chống Cộng để đàn áp đối lập dù đó là những người đã từng cùng với ông kháng chiến chống đế quốc Nhật như Kim Ku, Yo Woon Young.

Lý Tổng thống có ba điểm khác căn bản với ông Diệm là (1) ông đã đổi từ gốc đạo Phật qua đạo Tin Lành, (2) chẳng những không hợp tác mà còn tham gia kháng chiến vừa chống Nhật vừa chống chế độ quân chủ của dòng họ Yi và bị đi tù 6 năm, và (3) khi bị dân chúng, sinh viên phản đối chế độ độc tài tham nhũng, ông không tìm cách thỏa hiệp với Cọng sản Bắc Hàn mà từ chức và bỏ nước ra đi sống đời lưu vong ở Hạwaii. Là vị lãnh tụ một quốc gia đứng đầu sóng ngọn gió với Bắc Hàn và Trung Cộng, Lý Tổng thống dẫu độc tài tham nhũng bao nhiêu vẫn được người Mỹ bênh vực đến giờ phút chót như Tổng thống Thiệu của Việt Nam. Nghĩa là ông đã được một máy bay của CIA Mỹ đưa ông ra khỏi nước một ngày cuối tháng 4 năm 1960 (trước ông Thiệu đúng 15 năm) khi lực lượng biểu tình chống đối sắp tràn lên toà Bích Ốc (Blue House) để bắt ông xử tội độc tài và tham nhũng (Thứ trưởng Tài chính của ông, Kim Yong Kap, tiết lộ Lý Tổng Thống đã tham nhũng 20 triệu Mỹ kim). Điểm đặc biệt của Nam Hàn là sau kinh nghiệm đổ vỡ với Lý Thừa Vãn, những chính phủ quân nhân tiếp theo đã chẳng những không làm cho đồng minh Mỹ "tháo chạy" mà ngược lại, trong chuyến công du ngày 11/11/2010 mới đây, TT Obama đã tuyên bố tại thủ đô Seoul rằng sau gần 60 năm hợp tác: "nước Mỹ sẽ không bao giờ từ bỏ trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Nam Hàn." ("the U.S. 'will never waver' in its commitment to South Korea's security")
 
4. NHẬT BẢN: Tháng 8 năm 1945, sau khi nước Nhật bại trận, tướng Douglas MacArthur dẫn quân đội Mỹ đặt bộ Tổng chỉ huy tại Đông Kinh. Một trong những điều đầu tiên ông tướng nầy làm là kêu gọi các nhà truyền giáo Tin lành và Công giáo hãy tích cực "lấp đầy khoảng trống tâm linh" của nước Nhật. Và ông đe doạ: "nếu không lấp đầy nước nầy bằng Thiên chúa giáo thì nó sẽ bị Cộng sản lấp đầy." Ông nhấn mạnh: "nước Nhật không thể trở thành dân chủ nếu không có đạo Thiên chúa." Ông Tướng nầy cũng nói thẳng rằng "nhiệm vụ của ông với tư cách là một Chiến sĩ của Chúa … là phục sinh lại tôn giáo cho nước Nhật." Hoàng tử Higashikuni, lãnh chức Thủ tướng đầu tiên của Nhật sau Đệ Nhị Thế chiến, tuyên bố với một phái đoàn truyền giáo Mỹ rằng: "Chúng tôi cần một chuẩn mực đạo đức mới như của Chúa Giê-Su. Đạo Phật hay Thần đạo (Shinto) không bao giờ có thể dạy chúng tôi tha thứ cho kẻ thù." Đọc câu tuyên bố nầy ta mới thấy được ông Thủ tướng Nhật đã hiểu rất rõ tiêu chuẩn "tôn giáo" của nước Mỹ để hạ mình đến mức chê cả đạo Phật và Thần đạo của quốc gia mình. Nhất là sau 54 ngày làm Thủ tướng, ông đã quyết định về hưu và lập một Thiền đường tên Higashikuni-kyo, và bị Bộ chỉ huy quân đội Mỹ đóng cửa. Nhưng nước Mỹ đã thất bại trong cố gắng thay đổi tôn giáo nước Nhật vì mối liên hệ quá chặt chẽ giữa văn hoá và đạo Phật của xứ Võ sĩ đạo nầy. Mối liên hệ đồng minh Nhật-Mỹ là một mối liên hệ cân bằng và thành công khi nước Mỹ không áp dụng ba tiêu chuẩn đã kể và yếu tố kinh tế có thể được coi như đã giúp nước Nhật giữ được vị thế độc lập của mình một cách vững chãi.


5.
VIỆT NAM CỘNG HÒA: Qua bốn đồng minh trên của Mỹ, ta có thể thấy ông Diệm từ Vatican bay đến Nữu Ước năm 1951 là "đúng người, đúng chỗ và đúng lúc" để được Mỹ chọn làm đồng minh trong cuộc chiến tranh lạnh chống Cộng sản. Ông là một con chiên Công giáo thuần thành có bảo đảm của Hồng y Spellman. Trong trường hợp ông Diệm, chỉ yếu tố tôn giáo đó mà thôi cũng đã đủ mạnh để thuyết phục người Mỹ về yếu tố chính trị (chống Cộng) và yếu tố chủng tộc (văn hoá Gia tô sẽ kéo dân tộc Việt đến nằm ngoan ngoản dưới cái dù vĩ đại của văn hoá Tây phương như các ông Cố Tây và các ông quan Tây Thực dân đã ráng thực hiện trong gần 100 năm trước đó). Và đây là một chìa khóa của sự sai lầm trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở Việt Nam, ngay sau ngày thực dân Pháp bước chân ra và họ bước chân vào, khi họ nhầm lẫn về vai trò của một người lãnh tụ Công giáo cuồng tín trong một nước mà đa số người dân theo, hoặc chịu ảnh hưởng sâu đậm của, Phật giáo.

Theo tác giả Seth Jacobs, chìa khóa nầy lại bị kẹt cứng thêm nữa vì yếu tố thời gian. Nước Mỹ của Eisenhower, McCarthy, Spellman đã bị thay thế bởi nước Mỹ của Kennedy, Martin Luther King Jr. Điều oái oăm là sự kiện ông Kennedy được đắc cử tổng thống, dù là người Công giáo trong một quốc gia đa số dân theo Tin Lành, đã đem đến hậu qủa là yếu tố Công giáo của TT Diệm trở nên không còn quan trọng lắm cho nước Mỹ nữa. Khi cử tri Mỹ chọn ông Kennedy vào chức Tổng thống năm 1960, họ đã bầu với tâm trạng "đạo nào cũng được".

Ngược lại, trong khi yếu tố "chống Cộng" gia tăng tầm quan trọng (khi Kennedy phải đối đầu với Kruschev qua vu khủng hoảng đầu đạn nguyên tử ở Cuba sát nách nước Mỹ), thì ông Diệm và Nhu lại (vừa đàn áp Phật giáo) vừa đi gặp "đồng chí" Phạm Hùng và chưng cành đào của ông Hồ Chí Minh trong dinh Độc Lập thì "đồng minh phải tháo chạy đồng minh" để yểm trợ cho "đảng Kaki" chống Cộng lật đổ Diệm-Nhu là một hậu quả không làm ai ngạc nhiên cả.

Thời gian cũng là một nhân tố làm cho yếu tố chủng tộc thay đổi. Từ chiến thắng đế quốc Anh bằng thuyết "bất bạo động" của Gandhi cho đến hình ảnh tù binh thực dân Pháp sắp hàng sau cuộc đại bại ở Điện Biên Phủ đã đem đến cho người dân Mỹ những suy tư khác (bạo động hay bất bạo động) về các dân tộc ở ngoài nước Mỹ. Để thuyết phục người Mỹ về sự hiện hữu của những nền văn hoá ngoài Tây phương, người Mỹ của thập niên 1960 chỉ cần so sánh hình ảnh tàn bạo, dã man của cảnh sát Mỹ dẫn chó đi cắn những người da đen đi biểu tình ở ngay thủ đô Hoa Thịnh Đốn và hình ảnh tranh đấu bất bạo động của Hoà thượng Thích Quảng Đức trên truyền hình Mỹ.

Trong phần chót của chương kết luận, tác giả Seth Jacobs viết:
"Giữa những chính quyền nối tiếp nhau sau khi ông Diệm bị lật đổ, chỉ có một nhân vật được Mỹ ủng hộ đã cầm quyền được lâu dài như ông Diệm: Nguyễn Văn Thiệu. Khoảng năm 1970, các ký giả Mỹ ở Sài Gòn thường nói giễu là chiến lược của Mỹ "Nổi hay chìm với Ngô Đình Diệm" đã biến thành ra "Đi đến cùng với Nguyễn Văn Thiệu". Tổng thống Thiệu tuy là một chính trị gia mềm mỏng và ít cuồng tín hơn ông Diệm nhưng vẫn là một người theo đạo Công giáo. Cái yếu tố (tôn giáo) đã làm cho Mỹ từng quyết định ủng hộ vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hoà vẫn vướng vất, dù kín đáo, cho đến nền Cộng hòa của vị tổng thống cuối cùng của miền Nam."

Nghĩa là vẫn một chế độ loại "Diệm không Diệm" thì người Mỹ mới ủng hộ theo "yếu tố tôn giáo" của họ. Mặc dù sau đó cả người Mỹ và cả ông Thiệu đều
phải "tháo chạy" để mất luôn cả miền Nam. Thực trạng cay đắng nầy cần được đối chiếu với một hiện trạng mà Samuel Huntington đã tóm lược một cách thông suốt:
"Các quốc gia ngoài khối Tây phương có những trở ngại khác nhau khi đến với Tây phương. Ít trở ngại nhất là những nước Nam Mỹ và Đông Âu. Nhiều trở ngại là những nước theo đạo Gia-tô nguyên thủy thuộc Nga Sô (của thời kỳ Chiến tranh Lạnh). Nhiều trở ngại nhất là những xã hội Hồi, Khổng, Ấn và Phật giáo. Riêng Nhật Bản đã tự tạo cho mình một vị thế đặc biệt trong vai trò một thành viên liên hiệp không chính thức: Tuy trong hàng ngũ của Tây phương ở một vài khía cạnh nhưng Nhật Bản rõ ràng không phải là Tây phương trong nhiều địa hạt quan trọng." ("The obstacles to non-Western countries joining the West vary considerably. They are least for Latin American and East European countries. They are greater for the Orthodox countries of the former Soviet Union. They are still greater for Muslim, Confucian, Hindu, and Buddhist societies. Japan has established a unique position for itself as an associate member of the West: it is in the West in some respects but clearly not the West in important dimensions." – The Clash of Civilizations, Foreign Affairs, Summer 1993).
 
Đọc xong tác phẩm nầy của giáo sư Seth Jacobs, người Việt Nam sẽ nhận chân rõ rệt hơn não trạng chính trị của siêu cường Mỹ quốc thì câu hỏi đặt ra có phải là: Trong trật tự mới của thế giới, với những quốc gia Á châu như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore đang sánh vai một cách tự cường, tự lập với các quốc gia Tây phương, thì liệu Việt Nam sẽ chuyển mình vươn cánh thành một con rồng trong bầu trời độc lập của mình như Nhật Bản hay vẫn "lê gót nơi quê người" đi tìm một "đồng-minh-không-bao-giờ-tháo-chạy" theo những tiêu chuẩn hoang tưởng?

 
LÝ NGUYÊN DIỆU

Saturday, July 16, 2011

36 năm sau chiến tranh: Tái ngộ Mỹ-Việt Cộng

36 năm sau chiến tranh: Tái ngộ Mỹ-Việt Cộng

Nguyên tác : Xavier Monthéard ( Le Monde Diplomatique )
Bản dịch :  RFI

Bản báo cáo bí mật mang tựa đề ''Quan hệ Mỹ-Việt, 1945 – 1967'', vốn tiết lộ những lời giả dối của chính quyền Mỹ trong việc đưa quân tham chiến Việt Nam, vừa được giải mật để cho công chúng được quyền tham khảo. Về phía mình, chính quyền Hà Nội đã lật qua trang sử. Hơn thế nữa, mùa hè vừa qua, các cuộc tập trận hỗn hợp Mỹ-Việt diễn ra ngay tại nơi mà những người lính GI đầu tiên đã đổ bộ cách đây hơn 40 năm…

* *

Bán đảo Cam Ranh, ở miền trung Việt Nam (*). Trời gió lộng làm nhấp nhô cụm sóng trên biển « Hoa Nam » mà người Việt gọi là « Biển Đông ». Bị thu hẹp bởi hàng rào kẽm gai, một con đường ngoằn ngoèo dẫn đến căn cứ hải không quân mà quân đội Hoa Kỳ đã dựng lên trong thời chiến tranh Việt Nam. Các đồn lính cũ kỹ, tựa như một lớp áo, được khoác lên mảnh đất khô cằn trơ trụi. Binh lính và nhân viên hải quan thơ thẩn qua lại. Bến cảng quân sự không tiếp đón khách thăm viếng, mà họ có đến thì để làm gì ? Từ nhiều năm qua, hoạt động ở vịnh Cam Ranh diễn ra chầm chậm.

Tháng 10 năm 2010, Cam Ranh như thể bừng tĩnh sau giấc ngủ uể oải : Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố mở cảng Cam Ranh để tiếp đón tàu thuyền của tất cả các nước. Hoa Kỳ là ứng viên. Kể từ năm 2003, khoảng một chục chiến hạm Mỹ đã ghé vào các cảng của quốc gia cựu thù. Lần này, những người lính của Chú Sam, không vũ khí cũng như không hành trang, đã thực sự trở lại xứ sở của Bác Hồ - với tư các là thượng khách. Mọi chuyện diễn ra như thể những năm tháng chiến tranh, do 5 vị chủ nhân Nhà Trắng (1) liên tục tiến hành không còn nằm trong ký ức Việt Nam. 20 năm xung đột khốc liệt, ghê rợn kết thúc vào tháng Tư năm 1975 với việc chiếm được Sài Gòn, như thể bị lãng quên, người ta dường như cũng quên cả thái độ sau đó của chàng khổng lồ bị làm nhục, quyết tâm phong toả viện trợ quốc tế đối với một chú lùn đã đánh bại mình và cấm vận thương mại đã được duy trì cho đến năm 1994.

Khu trục hạm « USS John S. McCain » ghé cảng Đà Nẵng

Vào tháng 8 năm 2010, cuộc đối thoại quốc phòng Mỹ-Việt đầu tiên diễn ra tại Hà Nội. Trong cùng tháng, ở ngoài khơi Đà Nẵng – ngay tại nơi mà những người lính Mỹ đầu tiên đổ bộ vào năm 1965 – các sĩ quan cao cấp của Việt Nam ra biển tham quan tàu Mỹ USS George Washington, biểu tượng hàng đầu của hạm đội Bẩy và là một trong 11 hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Trong khi đó, khu trục hạm USS John S. McCain thì thả neo ở Đà Nẵng. Tại Hà Nội, tên của ông John McCain, ứng viên đảng Cộng Hoà ra tranh cử tổng thống Mỹ năm 2008, không còn làm chói tai. Nguyên là phi công oanh tạc cơ, và như vậy bị xem như là ''một tội phạm chiến tranh'', theo như lời ông nói sau nay, ông John McCain đã bị cầm tù trong vòng 5 năm rưỡi tại Việt Nam. Được trao tặng huân chương chiến công vì những nỗi thống khổ phải chịu đựng trong lúc bị bắt, ông trở thành một vị anh hùng đối với một bộ phận công luận Mỹ.

Tính chính đáng này đã giúp cho ông John McCain thuyết phục được phe bảo thủ, giúp cho tổng thống đảng Dân Chủ Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Không thù oán, phía Việt Nam quan tâm đến giai đoạn sự nghiệp sau này của ông McCain. Và các bức ảnh chụp tổng thống Bill Clinton nhân chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu tiên vẫn được treo tại cửa hàng bán thức ăn nhanh tại thành phố Hồ Chí Minh…Còn giờ đây, vợ của vị tổng thống này, bà Ngoại trưởng Hillary Clinton thì hoan nghênh về chặng đường mà hai nước đã trải qua: « Thay vì là cựu thù, chúng ta đã biết coi nhau như là những đối tác, đồng nghiệp và bạn hữu. Chính quyền Obama sẵn sàng nâng quan hệ Mỹ-Việt lên một tầm mức cao hơn (2) ».

Nhìn từ phía Hà Nội, việc xích lại gần Hoa Kỳ trước hết là theo logic kinh tế. Từ khi hiệp định thương mại song phương có hiệu lực vào năm 2001, trao đổi mậu dịch giữa hai nước gia tăng đều đặn. Vào năm 2000, trao đổi thương mại ở mức 1 tỷ đô la, đến năm 2010, thì đã lên đến 18,3 tỷ đô la. Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam, bà Jocelyn Trần, nhắm tới mục tiêu 35 tỷ đô la từ đây cho đến năm 2020 (3). Cán cân thương mại nghiêng hẳn về phía Hà Nội, các xuất khẩu sang Hoa Kỳ, - chủ yếu là hàng may mặc và giầy dép – mang về cho Việt Nam 14,8 tỷ đô la năm 2010, tương đương hơn một phần năm tổng thu nhập từ bên ngoài.

Mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Washington giúp cho Việt Nam hội nhập vào hệ thống thương mại quốc tế. Vào năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ đó trở đi, mức bình quân thu nhập hàng năm tính theo đầu người vượt qua ngưỡng một ngàn đô la. Theo cách tính của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam được xếp vào danh sách các quốc gia có mức thu nhập trung bình.

Cái giá phải trả của sự khởi đầu phồn thịnh này là cần phải lật qua trang sử với 3 triệu người chết trong chiến tranh, các khu vực đất đai bị tàn phá, các gia đình bị tan nát. Để làm việc này, cần phải suy nghĩ kỹ và viết lại ký ức. Theo nhà sử học Wynn W. Gadkar-Wilcox, « Sau năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam bắt đầu giảm nhẹ tầm quan trọng của thời kỳ 1954-1975, trong quan hệ với Mỹ, và ưu tiên đề cập đến giai đoạn 1941-1945. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ đã hợp tác với Việt Minh, và nhiều thành viên của cơ quan tình báo OSS (Office of Strategic Services, tiền thân của CIA) đã có quan hệ gắn bó cá nhân với ông Hồ Chí Minh. (…) Dựa vào các tập nghiên cứu của ông Robert Hopkins, mang tựa đề Hoa Kỳ và Việt Nam, 1787-1941, chuyên gia Phạm Xanh đã nhấn mạnh đến sự quan tâm của tổng thống Mỹ Thomas Jefferson (1801-1809) đối với các vụ lúa tại miền nam Việt Nam, cũng như nhiều cuộc thám hiểm mà Mỹ đã thực hiện tại Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XIX (4). »

Một nửa dân số Việt Nam dưới 26 tuổi. Quá khứ chiến tranh đối với họ rất xa vời và hình ảnh của Hoa Kỳ tạo trong tâm trí của họ niềm say mê. Sức quyến rũ đó không chỉ xuất phát từ đồng đô la xanh, mà còn nảy sinh từ « Giấc mơ kiểu Mỹ »: ai cũng có thể làm giàu nếu chịu khó và quyết tâm làm việc. 13 ngàn du học sinh - một kỷ lục đối với các nước Đông Nam Á - đã ghi tên vào một trường đại học ở phía bên kia bờ Thái Bình Dương.

Thỏa thuận đang thai nghén trong lĩnh vực hạt nhân dân sự

Miền nam Việt Nam, do lịch sử, rất sẵn sàng đón tiếp các đầu tư bằng đô la. Việc tập đoàn khổng lồ Intel chuyên sản xuất mạch vi xử lý đặt một nhà máy ở ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh (trước kia là Sài Gòn) có giá trị biểu tượng : đó là cơ sở lắp ráp và kiểm tra lớn nhất của tập đoàn này trên thế giới, với tổng đầu tư ước tính 1 tỷ đô la. Trên một blog của website thuộc doanh nghiệp này, ngay từ tháng 9 năm 2009, người ta có thể đọc thấy hàng chữ « We are back in Saigon ! » (« Chúng tôi trở lại Sài Gòn »)…

Mối diễm tình này không có nghĩa là không còn một vài tỵ hiềm, bởi vì Hoa Kỳ ngay lập tức đã tự coi mình là những người bảo vệ nhân quyền. Trong năm 2010, 80 người đã bị bắt – trong số này 14 người bị kết án – vì đã bày tỏ quan điểm trái ngược với đường lối của đảng Cộng sản. Nhiều nhà báo và viết blog nằm trong số này. Trong một cuộc họp báo được tổ chức tại Hà Nội, ngày 10/12/2010, đại sứ Mỹ Michael W. Michalak đã nhẹ nhàng tuyên bố « rất tiếc, trong ba năm nhiệm kỳ của tôi, những tiến bộ trong lĩnh vực nhân quyền còn không đồng đều ».

Ở mặt đối lập, kỷ niệm sống động về sự dính líu của các tổ chức Mỹ trong các « cuộc cách mạng mầu » tại Đông Âu, nuôi dưỡng sự nghi kỵ. Phải chăng chính quyền Mỹ sẽ không khuyến khích một kịch bản « diễn biến hòa bình », mà đối với Hà Nội, đồng nghĩa với ý đồ gạt bỏ chế độ và bản sắc văn hóa Việt Nam ?

Thế nhưng, những đụng chạm này chỉ là một sự phản ánh nhạt nhòa những thù hận trong quá khứ. Thậm chí, năm 2011 có thể sẽ chứng kiến hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Một thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân dân sự đang được hoàn tất. Bản thỏa thuận liên quan đến việc chuyển giao công nghệ và phát triển các cơ sở hạ tầng, mở cửa cho các doanh nghiệp Mỹ tiếp cận với một thị trường hứa hẹn : Việt Nam mong muốn xây dựng 13 nhà máy điện hạt nhân, với tổng công suất là 16 000 MW, trong 20 năm tới. Các điều khoản của bản thỏa thuận không cấm việc làm giàu uranium – cho phép, về mặt lý thuyết, thực hiện một chương trình hạt nhân quân sự - trong khi Hoa Kỳ thường xuyên gây sức ép buộc các nước khác từ bỏ quyền được làm giàu uranium như vậy. Nhiều nhà bình luận đã so sánh các điều khoản này, có lợi cho Việt Nam, với các điều khoản của bản thỏa thuận Ấn Độ - Hoa Kỳ về hạt nhân năm 2007 (5).

Tuy nhiên, ông Brahma Chellaney (6), giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính trị New Delhi cũng giảm thiểu những điểm đồng nhau này : « Do Ấn Độ không phải là thành viên hiệp ước không phổ biến hạt nhân (TNP), nước này phải chịu nhiều hạn chế đặc biệt chiếu theo luật lệ của Mỹ. Do vậy, chính phủ Mỹ cần phải có được một sự miễn trừ đặc biệt từ phía Quốc hội. Trong trường hợp của Việt Nam, nước ký kết TNP, một sự đòi hỏi như vậy không cần thiết. Vả lại, vì Ấn Độ là một quốc gia có vũ khí nguyên tử, thỏa thuận song phương cần phải được xây dựng một cách chuyên biệt. »

Như vậy, hai thỏa thuận này gần giống nhau là do mục đích của chúng chứ không phải do bản chất. Ông Chellaney thẩm định : « Hoa Kỳ sử dụng các thỏa thuận hạt nhân ký với Ấn Độ và Việt Nam như một công cụ chiến lược để xây dựng một sự hợp tác thân thiết ». Do đó, Việt Nam chắc chắn sẽ có được một thỏa thuận tốt nhất trong nhóm « các quốc gia hạt nhân trỗi dậy », đó là những nước vừa mới bắt đầu thực hiện một chương trình hạt nhân dân sự. Ngược lại với trường hợp Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, ví dụ thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất năm 2009 ghi rõ Tiểu vương quốc này từ bỏ quyền làm giàu uranium trên lãnh thổ của mình. Phải chăng « nhất bên trọng, nhất bên khinh ? » Khi còn là phát ngôn viên bộ Ngoại giao, ông Philip J.Crowley đành phải nói rằng « Hoa Kỳ đàm phán những hiệp định như vậy theo từng trường hợp, đối với từng nước, từng vùng (7) ».

« Một hoàn cảnh mong manh như vỏ trứng »

Đối với Washington, việc củng cố các quan hệ quân sự và hợp tác hạt nhân có một mục tiêu : đó là duy trì sự ưu thế của Mỹ tại Thái Bình Dương. Do vậy, trong năm 2010, Hoa Kỳ đã bán 6 tỷ đô la thiết bị quân sự cho Đài Loan ; thông báo nối lại mối quan hệ với lực lượng đặc biệt Indonesia (Kopassus), cho dù lực lượng này có dính líu đến những vụ tàn sát ở Timor, Aceh và Papua ; bảo vệ quyền tự do lưu thông ở Biển Đông và coi đây là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ, theo lời bà Ngoại trưởng Clinton ; tiến hành các hoạt động quân sự chung với Hàn Quốc ở Hoàng Hải ; khi xẩy ra va chạm tại vùng quần đảo Điều Ngư/Senkaku mà Trung Quốc và Nhật Bản đều coi thuộc chủ quyền của mình, Hoa Kỳ đã nhắc lại rằng Nhật Bản sẽ được hậu thuẫn nếu cần thiết, theo tinh thần hiệp ước phòng thủ chung.

Đa số các biện pháp này, nếu không nói là tất cả, đều nhằm đối phó với sự lớn mạnh của Trung Quốc : sự bật dậy của đế chế Trung Hoa tất đương nhiên dẫn đến việc Hoa Kỳ nâng cao giá trị chiến lược của các quốc gia láng giềng với Trung Quốc. Tạp chí Mỹ về Quốc phòng 2010, bốn năm ra một lần (US Quadrennial Defense Review 2010) nói đến Indonesia, Malaysia và Việt Nam như là những đối tác tiềm tàng trong lĩnh vực an ninh. Ông Kurt Campbell, trợ lý Ngọai trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương còn nói rõ hơn : « Khi nhìn vào tất cả những quốc gia bạn bè của chúng ta ở Đông Nam Á, tôi nghĩ rằng chính với Việt Nam mà chúng ta sẽ có những triển vọng tốt đẹp nhất » (8). Đối với cường quốc Hoa Kỳ, lại một lần nữa, đất nước này là một con tốt cần thiết, nhưng lần này, không phải để chống chủ nghĩa cộng sản, mà chống lại cái gọi là chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.

Mối ám ảnh này có được sự đồng thanh. Từ nhiều thế kỷ qua, Việt Nam xoay trong quỹ đạo của đế chế Trung Hoa đồng thời tìm cách thoát ra khỏi sức hút của nó. Sự phụ thuộc về kinh tế của Việt Nam vẫn còn rất lớn – nhập khẩu từ láng giềng phương Bắc chiếm một tỷ lệ cực kỳ cao. Do vậy, ông Carlyle Thayer, giáo sư danh dự tại đại học Souh New Wales, Canberra, chuyên gia về Việt Nam, đánh giá rằng « không một nước nào có thể tự tin và có ảnh hưởng như Trung Quốc trong quan hệ với Hà Nội (9) ». Về cơ bản, ngoại giao Việt Nam tìm cách hòa thuận với càng nhiều nước càng tốt để thoát ra khỏi Bắc Kinh, nhưng đồng thời lại muốn duy trì quan hệ ưu tiên với nước láng giềng lớn – đây là mối bận tâm mà ngoại giao Việt Nam chia sẻ với nhiều nước Đông Nam Á. Cựu đại sứ Đinh Hoàng Thắng không coi nhẹ những khó khăn : « Nếu Việt Nam có thể thuyết phục được Trung Quốc rằng việc cải thiện quan hệ Mỹ-Việt sẽ không ảnh hưởng đến các quyền lợi của nựớc thứ ba, thì đó sẽ là một thành công lớn (10) ».

Công việc này cũng không phải là dễ dàng đối với Mỹ. Ông Brantly Womack, giáo sư Quan hệ Quốc tế tại đại học Virginia Hoa Kỳ (11) nhắc lại rằng « sự xa cách giữa Hoa Kỳ và châu Á và mối quan hệ song song của Mỹ vừa với Trung Quốc vừa với Việt Nam tiếp tục làm biến dạng sự hiểu biết về mối quan hệ song phương này ». Phía Trung Quốc cũng đưa ra những mệnh lệnh đôi khi mạnh mẽ : « Việt Nam phải hiểu rằng, bị kẹp giữa hai cường quốc, họ đang chơi một trò chơi nguy hiểm, với hoàn cảnh vừa bấp bênh vừa mong manh như vỏ trứng », người ta có thể đọc thấy những dòng này trên Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc (…) « Nếu Trung Quốc và Việt Nam thực sự dẫn đến đối đầu quân sự với nhau, thì không có một tàu chở sân bay nào, của bất kỳ một nước nào, có thể bảo đảm an ninh cho Việt Nam ».(12)

Một cuộc tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông liên quan đến quần đảo Hoàng Sa – Paracels và Trường Sa – Spratleys đã tích tụ vào cuối thế kỷ XX (13). Cho dù vừa qua đã củng cố hạm đội của mình, Hà Nội không thể tranh đua với hải quân Trung Quốc. Do vậy, theo phân tích của ông Richard Bitzinger, chuyên gia về các vấn đề quốc phòng tại châu Á-Thái Bình Dương, « Việt Nam muốn thấy có nhiều quốc gia hơn nữa can thiệp vào Biển Đông. Đối với Việt Nam, đây sẽ là một sự bảo vệ. Việt Nam cũng muốn nhận được sự hỗ trợ để mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở hạ tầng của cảng trong vịnh Cam Ranh. Tôi nghĩ rằng hải quân Mỹ sẽ tranh thủ vị trí chiến lược này, hải quân các nước khác cũng sẽ làm như vậy – đương nhiên, chỉ có hải quân Trung Quốc là sẽ vắng mặt !»

Cuộc xung đột 1979 với Bắc Kinh bị bỏ qua

Liệu một ngày nào đó, người ta sẽ thấy Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam chống lại đế chế Trung Hoa ? Quả sẽ là trớ trêu quá mức, nếu như người ta nhớ lại rằng sau khi tuyên bố độc lập ngày 2/09/1945, Trung Quốc của Mao Trạch Đông là nước đầu tiên công nhận nền dân chủ cộng hòa non trẻ này, vào tháng Giêng năm 1950, trước Liên Xô khoảng 12 ngày… Giữ cân bằng giữa hai nước bảo trợ cộng sản, mà 2 nước này sau đó lại trở thành đối thủ của nhau, là một phương trình mà Hồ Chí Minh và những người kế tục ông đã giải quyết thành công trong 25 năm. Viện trợ của Liên Xô đã biến mất khi chiến tranh lạnh kết thúc. Cuộc xung đột công khai giữa Việt Nam và Trung Quốc vào cuối những năm 1970, đã trở thành vấn đề húy kỵ nhất trong chính sách đối ngoại. Hơn 30 năm sau khi xẩy ra cuộc xung đột, vẫn không thể nào nói đến cuộc chiến tranh ngắn ngủi trong tháng Hai tháng Ba năm 1979 đã làm hàng chục ngàn người thiệt mạng. Báo chí cũng như sách giáo khoa không nói đến cuộc chiến tranh này. Về mặt chính thức, tất cả mọi việc đều tốt đẹp với Bắc Kinh.

Lịch sử đã cho thấy những nguy hiểm đối với Việt Nam khi nước này rơi vào những tính toán địa-chính trị của những siêu cường láng giềng. Ỏ Hà Nội, liệu có ai sẽ quên điều này ? Nhà ngoại giao Hoàng Anh Tuấn vừa nhắc lại rằng Việt Nam « là nước duy nhất trên thế giới đã tiến hành những cuộc đàm phán dồn dập và kéo dài với Hoa Kỳ (…) Cho dù lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau đã có những tiến triển đáng kể, nhưng không có gì bảo đảm là những hiểu nhầm chiến lược lại không xuất hiện (…) Do vậy, quan hệ song phương chỉ có thể được thiết lập một cách bền vững trên cơ sở bình đẳng nếu như mối bang giao này được xây dựng nhằm phục vụ các lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như của Hoa Kỳ, chứ không chỉ nhằm phục vụ các lợi ích địa – chính trị của một bên.(14) ». Hiện nay, có nhiều điềm tốt. Thế nhưng « sự hung dữ của vị trí địa lý (15) » có thể vẫn chưa thôi định hướng số phận quốc gia Việt Nam.

* *
Chú thích
(*) Trong bài, tác giả viết là Cam Ranh ở miền nam Việt Nam
(1) Dwight Eisenhower (giữa 1954 và 1961), John F. Kennedy (1961-1963), Lyndon B. Johnson (1963-1969), Richard Nixon (1969-1974) et Gerald Ford (giữa 08/1974 và 04/1975).
(2) Diễn văn đọc tại Hà Nội, ngày 21/07/2010 bên lề cuộc gặp lần thứ 43 cấp Ngoại trưởng Hiệp hội các nước Đông Nam Á – ASEAN.
(3) Báo Tuổi Trẻ, Hà Nội, 20/12/2010.
(4) Wynn W. Gadkar-Wilcox, « Mối quan hệ không rõ ràng : Những ấn tượng về Hoa Kỳ trong giảng dậy lịch sử tại Việt Nam 1989 – 2009 - An ambiguous relationship : Impressions of the United States in Vietnamese historical scholarship, 1986-2009 », World History Connected, tập 7, n° 3, Washington, DC, 10/2010.
(5) Đọc Siddharth Varadarajan, « Ấn Độ khao khát được thừa nhận », Le Monde diplomatique, 11/ 2008.
(6) Tác giả của cuốn « Sức mạnh châu Á: Sự vươn lên của Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản », HarperCollins, New York, 2006. Ngoại trừ có chỉ dẫn ngược lại, tất cả những trích dẫn của các nhà phân tích đều xuất phát từ các cuộc trao đổi.
(7) Được trích dẫn trong bài của Daniel Ten Kate và Nicole Gaouette, « Hoa Kỳ, Việt Nam tiến hành các cuộc đàm phán về công nghệ hạt nhân như là những đối tác tranh giành hợp đồng », Bloomberg, 06/08/2010.
(8) Agence France-Presse, 07/2010.
(9) Carlyle Thayer, « Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ », hội thảo được tổ chức tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 10/12/2010.
(10) Phỏng vấn dành cho VietNamNet (ấn bản điện tử), 17/02/2010.
(11) Brantly Womack, « Hoa Kỳ và mối quan hệ Trung-Việt », The Asia-Pacific Journal: Japan Focus (ấn bản điện tử), 2008.
(12) Lý Hồng Mai, "Khuyên Việt Nam không nên đùa với lửa », Nhân dân nhật báo, Bắc Kinh, 17/08/2010.
(13) Trung Quốc dùng quân đội chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ tháng Giêng 1974 nhưng Việt Nam và Đài Loan vẫn đòi hỏi chủ quyền của mình ở đây. Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Đài Loan chiếm đóng các đảo khác nhau trong quần đảo Trường Sa (Brunei có đòi hỏi chủ quyền nhưng không đưa quân đội đến đây). Phân tích về các vấn đề chính trị và tìm kiếm giải pháp, xem Stein Tønnesson, trong « Những thay đổi sắp tới của Trung Quốc tại biển Hoa Nam », Harvard Asia Quarterly, Cambridge (Massachusetts), 12/2010
(14) Hoàng Anh Tuấn, « Sự nhích lại gần nhau giữa Việt Nam và Hoa Kỳ : Một câu trả lời », Contemporary Southeast Asia, tập. 32, n° 3, Singapour, 2010.
(15) Carlyle Thayer, « Sự hung dữ của vị trí địa lý : Những chiến lược của Việt Nam nhằm kiềm chế Trung Quốc tại biển Hoa Nam», International Studies Association, Montréal, 03/2011.

Từ hạt giống đỏ đến gia đình trị

Từ hạt giống đỏ đến gia đình trị 

Hồng Quân

Ông Nguyễn Thanh Nghị, bên trái, con trai của Thủ tướng Nguyế̃n Tấn Dũng
Cha truyền con nối : Khuôn mặt bơ sữa của hai Hoàng tử Đỏ
Nguyễn Thanh Nghị 35t mang kính ( con trai TT Nguyễn TấnDũng )
              Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng


Cái lạnh giá chết trâu chết bò từ Phương Bắc tràn về không làm cho câu chuyện về Đại Hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng CSVN bớt nóng.

Từ Đại Hội tới Đại Hội, thành công lại tiếp tục thành công. Những cụm từ mà khi chưa tổ chức người ta đã sử dụng và biết chắc chắn rằng nó sẽ được nói ra khi Đại Hội kết thúc.

Trong cuộc họp báo đầu tiên ngay sau khi kết thúc Đại Hội (ngày 19/1), tân Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, nói với các phóng viên trong nước và quốc tế rằng Đại Hội đã thành công rực rỡ. Có một vài trục trặc nhỏ nhưng không đáng kể.

Ông Trọng không nhắc đến cụ thể sự trục trặc đó là cái gì nhưng có thể hiểu một trong số đó là danh sách đề cử mà Trung Ương Đảng CSVN khóa X trình Đại Hội đã có 7 trường hợp không được bầu.

Trong đó đáng chú ý nhất là trường hợp của Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Gia Khiêm cùng với một số vị bộ trưởng khác.

Ông Nguyễn Xuân Anh
Hoàng tử Đỏ Nguyễn Xuân Anh 35 t
Phó CT UBND TP Đà Nẳng là con trai
cựu Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Chi

Bí mật thông tin

Người dân không được biết các thông tin và câu chuyện nội bộ của Đại Hội. Các nhà báo theo dõi cũng vô cùng ít thông tin về các cuộc họp bên trong.
Vì thế thông tin ông Trọng đưa ra về việc danh sách Trung Ương trình đã bị Đại Hội thay đổi làm cho người nghe cảm thấy vui vui và có những ý nghĩ lạc quan về không khí dân chủ của Đại Hội.

Nhiều người còn nghĩ đến một tương lai dân chủ hơn ngoài xã hội. Nhiều đại biểu có học thức, có chính kiến riêng và việc họ làm không phải hoàn toàn theo ý kiến chỉ đạo trước.

Tuy nhiên, chuyện những người không trúng cử rồi sẽ qua đi. Nhiều vị sẽ nghỉ hưu và sẽ không còn ảnh hưởng gì đến nền chính trị Việt Nam trong tương lai.

Nhưng điều sẽ còn lại và quyết định việc đưa con thuyền Việt Nam đến bến bờ nào là danh sách của những người tái cử và những người trúng cử.
Đại Hội đã bầu được 200 người vào Ban Chấp Hành Trung Ương.

200 con người được gọi là hiền tài của đất nước ấy là những ai? Già trẻ ra sao? Họ đến từ những nơi nào? Đại diện cho thành phần xã hội nào?

Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì đại diện của họ trong Trung Ương là những ai? Có bao nhiêu người xuất thân từ lao động?...

Và nhiều câu hỏi nữa mà người dân Việt Nam với dân số gần 90 triệu người rất muốn biết nhưng sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để biết.

Câu hỏi không có trả lời

Ngay như Bộ Trưởng Xây Dựng Nguyễn Hồng Quân cũng không hề biết được người vừa trúng cử ủy viên dự khuyết ngồi cạnh mình, ông Trần Sỹ Thanh, Phó Bí Thư Tỉnh Ủy Đắk Lắk là ai thì nói gì đến các đại biểu khác hay dân thường ngoài xã hội?

Ông Trần Sỹ Thanh, sinh năm 1972, là Phó Bí Thư Tỉnh Ủy Đắk Lắk.

Bí thư Bắc Giang Nông Quốc Tuấn
Hoàng tử Đỏ Nông Quốc Tuấn năm nay 48 tuổi
con trai cựu TBT Nông Đức Mạnh

Trước khi được bầu giữ chức Phó Bí Thư cuối năm 2010 vừa rồi, ông làm Phó Tổng Giám Đốc Kho Bạc Nhà Nước Việt Nam và luân chuyển vào giữ chức Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Đắk Lắk, một địa bàn kinh tế chính trị giàu có quan trọng ở Tây Nguyên.

Ông là cháu ông Nguyễn Sinh Hùng, Ủy Viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ Tướng Chính Phủ, người vừa tái cử thêm một nhiệm kỳ nữa và nghe đồn sẽ thay thế ông Nguyễn Phú Trọng làm Chủ Tịch Quốc Hội vào tháng 7 tới.

Trường hợp ông Trần Sỹ Thanh có thể ít người biết đến nhưng ba trường hợp nổi bật khác cũng trúng vào Trung ương lần này, hay ba 'hoàng tử đỏ" khác, thì khá là nổi tiếng.

Đó là ông Nông Quốc Tuấn, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, con trai Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá IX và X Nông Đức Mạnh.

Trường hợp thứ hai là ông Nguyễn Thanh Nghị, Phó Hiệu Trưởng Trường Đại Học Kiến Trúc Thành Phố Hồ Chí Minh, con trai đương kim Ủy Viên Bộ Chính Trị, Thủ Tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Trường hợp thứ ba là ông Nguyễn Xuân Anh, Bí Thư Quận Ủy Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, con trai Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kiểm tra Trung Ương khoá 10 Nguyễn Văn Chi.

Không thể phủ nhận là trong số các ủy viên trung ương lần này cũng có nhiều người là con cái cán bộ lão thành -- những người được coi như khai quốc công thần, hy sinh cả cuộc đời mình cho cách mạng Việt Nam; nhưng dường như sự thành đạt của họ trên chính trường khó có thể nhận thấy sự can thiệp dìu dắt của cha họ.

Thậm chí nhiều người yêu mến còn cho rằng họ phải rất vất vả để vượt qua cái bóng của cha mình như Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, con trai cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

Tướng Thanh đã hy sinh vài chục năm nay, khi ông Vịnh còn là trẻ con.

Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại Giao Phạm Bình Minh là con trai cố Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch nhưng nhiều người thậm chí còn không biết họ là cha con.

Đứng sau Phạm Bình Minh trong danh sách trung ương có Trần Bình Minh, Phó Tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam.

Ông Minh nổi tiếng là một nhà báo tài năng, hoạt ngôn và rất thông minh chứ ít được biết đến như con trai nguyên Tổng Giám Đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Trần Lâm, người đã treo cờ tổ quốc ở Nhà Hát Lớn Hà Nội trong ngày 19/8/1945.

Hay một trường hợp khác là bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Thứ trưởng Bộ Y Tế.

Bà Tiến bắt đầu nổi tiếng khi được nhắc đến là Viện Trưởng Viện Pasteur Thành Phố Hồ Chí Minh khi dịch cúm gia cầm xảy ra ở Việt Nam cách đây vài năm chứ ít được biết đến với tư cách cháu ngoại cố Tổng Bí Thư Hà Huy Tập.

Chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa gia đình trị?

Còn bao nhiêu 'hạt giống đỏ' trong Trung Ương lần này? Bao nhiêu người là con cán bố lão thành, những người sẽ tiếp nối sự nghiệp cách mạng của cha ông mình ở Việt Nam?

Và bao nhiêu người là con cán bộ đương chức?

Nếu như trường hợp của ông Vịnh, bà Tiến và hai ông Minh không có gì để bàn luận nhiều thì trường hợp của ông Tuấn, ông Nghị và ông Xuân Anh đã được dân chúng râm ran bàn luận trước khi đại hội diễn ra.

Trước đó vài tháng ở Bắc Hàn, con trai út của nhà lãnh đạo Kim Yong-il là Kim Jong-un, 27 tuổi, được phong hàm đại tướng, mở đường cho một sự nối ngôi của gia đình độc tài họ Kim này.

Phó TGĐ Đài Truyền hình Việt Nam Trần Bình Minh
Hoàng tử Đỏ Trần Bình Minh gắn bó nhiều năm với ngành truyền hình

Liệu có sự liên tưởng nào giữa hai đất nước có cùng hệ tư tưởng cộng sản Marxism - Leninism này không?

Ông Nông Quốc Tuấn thuộc thế hệ 6X.

Về tuổi tác ông không hẳn là trẻ nhưng chưa chứng minh được bản thân trong khi bị chỉ trích là bất tài, năng lực thuộc loại yếu.

Ông không có học hành đến nơi đến chốn mà bắt đầu bằng việc đi xuất khẩu lao động ở Đức.

Sau khi cha của ông chuyển công tác từ tỉnh miền núi Bắc Thái về Hà Nội và thăng tiến nhanh ở thủ đô, ông Tuấn gia nhập cơ quan Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, nơi cung cấp cán bộ cho Đảng.

Ông nhanh chóng được đề bạt đến chức bí thư trung ương Đoàn, một cấp hàm tương đương thứ trưởng.

Sau một hồi luân chuyển lòng vòng, nay ông là người đứng đầu một tỉnh phía bắc và có tên trong Trung Ương Ủy Viên.

Khác với ông Tuấn, hai ông Xuân Anh và ông Nghị thuộc thế hệ 7X. Họ còn rất trẻ và được học hành tử tế.

Họ được chuẩn bị để tiếp tục có vị trí cao hơn trong Đảng Cộng Sản vào nhiệm kỳ tới.

Điều này đã được nhiều doanh nhân ở Sài Gòn nhận định rằng, về mặt hình thức, Việt Nam vẫn tuyên bố đi theo chủ nghĩa cộng sản để tiến tới chủ nghĩa xã hội, một xã hội công hữu về tư liệu sản xuất.

Nhưng thực tế thì một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đang hành động theo cách ngược lại, là tư hữu hoá mọi thứ có thể cho gia đình mình.

Họ sẽ đưa đất nước theo hướng được điều hành bởi một nhóm gia đình quyền lực về kinh tế và chính trị, trong đó việc đưa con trai mình vào trung ương lần này càng khẳng đình rõ quan điểm cho rằng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ đưa đất nước theo hướng đó và gia đình ông là một trong những gia đình điều hành đất nước Đông Nam Á này.

Nếu như ở Trung Quốc, ông Tập Cận Bình, Phó Chủ Tịch Trung Quốc cho rằng đất nước nên được điều hành bởi con cái của những nhà cách mạng tiền bối thì ở Việt Nam, quan điểm này đang bắt đầu có cơ sở.

Trước khi đại hội 11 diễn ra, Tổng Biên Tập Báo Nhân Dân Đinh Thế Huynh cho rằng chỉ Đảng Cộng Sản là người lãnh đạo thành công nhiều cuộc chiến tranh cho nên chỉ có Đảng Cộng Sản mới có quyền lãnh đạo đất nước.

Nhưng việc con cái các nhà lãnh đạo được chuẩn bị để tiến tới điều hành đất nước sẽ đưa đất nước này đi về đâu?